Trại LLDB Pleime (A-255)
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime nằm tại tọa độ ZA163049, cách thành phố Pleiku 40 dặm về hướng nam, do toán A-255 LLĐB Hoa Kỳ và LLĐB/VN chỉ huy. Trong trại có ba đại đội Dân Sự Chiến Đấu, mỗi đại đội quân số khoảng 100 người. Trại LLĐB này nằm trong mục tiêu, mà bộ tư lệnh Mặt Trận B3 (cao nguyên, tây nguyên) Bắc Việt thấy cần phải được thanh toán. Bộ tư lệnh Mặt Trận B3 lúc đó (năm 1965) có sư đoàn 320, và hai trung đoàn độc lập 33 và 66. Tất cả đều là đơn vị chính quy từ miền bắc vào.
Đó là một chiến dịch tấn công lớn trong năm 1965 của quân đội Bắc Việt trên vùng cao nguyên miền nam Việt Nam, chia ra làm ba giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, bộ tư lệnh Mặt Trận B3 xử dụng trung đoàn 33 tấn công trại LLĐB Pleime. Giai đoạn hai, dự trù xử dụng trung đoàn 32 phục kích, tiêu diệt các đơn vị VNCH, Đồng Minh lên tiếp viện, giải tỏa áp lực cho trại LLĐB Pleime. Chiến thuật “Công Đồn, Đả Viện”, địch quân thường xử dụng và rất thành công trong những trận đánh với quân đội Pháp trước đây. Lần này bộ tư lệnh Mặt Trận B3 cũng tin (chắc) rằng phe Đồng Minh sẽ đưa quân lên tiếp viện cho Pleime. Sau khi “dứt điểm” trại LLĐB Pleime, quân đội Bắc Việt sẽ chuẩn bị cho trận đánh lớn trong thung lũng Ia Drang trong giai đoạn ba của chiến dịch.
Trận tấn công trại LLĐB Pleime bắt đầu lúc 11:00 giờ sáng ngày 19 tháng Mười năm 1965. Địch quân mở màn trận tấn công bằng những đợt pháo kích súng cối 82 ly vào căn cứ. Tiếp theo là những đợt tấn công bằng bộ binh, và đơn vị đặc công, cắt hàng rào kẽm gai vào được tuyến phòng thủ hướng nam của trại LLĐB hình tam giác. Lính Bắc Việt xử dụng đại bác không dật 57 ly bắn rất chính xác vào trong căn cứ, tiêu hủy hai trong số ba pháo đài chính đặt ngay góc của hình tam giác.
Theo sự tính toán của cấp chỉ huy quân đội Bắc Việt, trong giai đoạn đầu, họ chỉ muốn bao vây, cô lập trại LLĐB Pleime, dụ cho quân đội VNCH và Đồng Minh đưa quân lên tiếp viện, trên tỉnh lộ 5 (đuờng đi đến trại LLĐB Pleime), phục kích, đánh tan trong giai đoạn 2. Họ không ngờ sức mạnh khủng khiếp của Không Lực Hoa Kỳ, các khu trục cơ A1-E thả bom rất chính xác trên những vị trí tập trung quân đội Bắc Việt gây tổn thất nặng nề.
Các phi cơ vận tải AC-123 Provider thuộc phi đoàn 309 Cảm Tử đóng trong phi trường Biên Hòa bay bao vùng thả hỏa châu suốt đêm soi sáng chiến trường. Khi trời vừa sáng, một trực thăng thuộc phi đoàn 498 tản thương trong căn cứ Holloway bay vào trại LLĐB di tản thương binh. Viên phi công lái trực thăng tản thương là thiếu tá Louis Mizell, đã can đảm bay lên Pleime mặc dầu cấp chỉ huy không cho phép.
Sau khi bao vây, tấn công trại LLĐB Pleime mấy ngày, vẫn không “dứt điểm” căn cứ, trung đoàn 33 Bắc Việt đã kiệt sức, hy vọng trung đoàn 32 sau khi đã đánh tan lực lượng tiếp viện sẽ đến tiếp tay. Bộ tư lệnh Quân Đoàn II VNCH đưa một đạo quân hỗn hợp gồm: Bộ Binh, Biệt Động Quân, Thiết Giáp tiến theo tỉnh lộ 5 vào giải vây trại LLĐB bị rơi vào ổ phục kích của trung đoàn 32 Bắc Việt. Tuy nhiên nhờ hỏa lực pháo binh sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ (1st Cav) và Không Quân yểm trợ mạnh mẽ, bẻ gẫy cuộc phục kích.
Khi các đơn vị tiếp viện vào đến khu vực xung quanh trại LLĐB Pleime, trung đoàn 33 Bắc Việt phải rút lui. Trận Pleime được xem như chấm dứt.
Đến cuối tháng Mười, sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ mở cuộc hành quân “lùng và diệt” tàn quân thuộc hai trung đoàn 32, 33 Bắc Việt sau trận tấn công trại LLĐB Pleime không thành công. Lữ đoàn 1, sư đoàn Không Kỵ truy kích địch đến một khu vực rộng lớn nằm về hướng tây nam thành phố Pleiku, hướng tây trại LLĐB Pleime. Lữ đoàn này truy lùng trung đoàn 33 Bắc Việt đang lẩn trốn nơi phiá đông thung lũng Ia Drang.
Hai sự kiện quan trọng trong cuộc hành quân “lùng và diệt”, khám phá và “bắt sống” một bênh viện của quân đội Bắc Việt, cùng với thương bệnh binh và rất nhiều vũ khí trong rừng sâu hôm 1 tháng Mười Một và tịch thu rất nhiều tài liệu. Sự kiện thứ hai là phục kích trung đoàn 66 Bắc Việt, mới được đưa vào trận điạ, dọc theo giòng sông Ia Drang, nơi hướng tây thung lũng.
Đến ngày 10 tháng Mười Một, sư đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ đưa lữ đoàn 3 vào thay cho lữ đoàn 1. Lữ đoàn này tiến quân hai bên đông và tây trại LLĐB Pleime, nhưng không chạm súng với địch. Đến xế chiều hôm thứ Bẩy ngày 13 tháng Mười Một, vị lữ đoàn trưởng lữ đoàn 3, đại tá Thomas Brown ra lệnh cho tiểu đoàn 1/7 dưới quyền trung tá Hal Moore đem tiểu đoàn vào thung lũng Ia Drang ngày 14 tháng Mười Một, với nhiệm vụ “Lùng và Diệt”.
Trung tá More được xử dụng 16 trực thăng chuyển quân, hai pháo đội (12 khẩu) đại bác 105 ly yểm trợ trực tiếp. Tin tình báo cho biết có ba tiểu đoàn Bắc Việt đang ở trong thung lũng.
Trung tá Moore ra lệnh cho sĩ quan tham mưu cùng năm đại đội trưởng chuẩn bị, nghiên cứu bản đồ hành quân, lập kế hoạch, nhận đồ trang bị tiếp liệu. Sáng sớm hôm sau, ông ta cùng sĩ quan hành quân bay thám sát, tìm bãi đáp trực thăng và sẽ ban lệnh hành quân cho cả tiểu đoàn.
Chuyến bay thám thính tiến hành như dự định, lúc 8:50 phút sáng, trung tá Moore ban lệnh hành quân, kế hoạch hành quân cùng với sự yểm trợ của pháo binh. Tất cả các đại đội sẽ được trực thăng đưa đến bãi đáp, đặt tên là X-ray, đủ rộng để cho khoảng tám đến mười trực thăng đáp cùng lúc. Bãi đáp X-ray cách điểm tập trung quân, xung quanh trại LLĐB Pleime 14.3 dặm.
Trung tá tiểu đoàn trưởng 1/7 Moore sẽ bay trên trực thăng chỉ huy (C&C) cùng xuống với chuyến đổ quân đầu tiên, đại đội tấn công, sau khi pháo binh 105 ly, không pháo (pháo binh trên máy bay bắn hỏa tiễn xuống – Aerial Artillery) đã bắn “dọn đường”. Trên chiếc trực thăng chỉ huy (C&C), ngoài trung tá Moore tiểu đoàn trưởng, có thêm sĩ quan hành quân, sĩ quan điều không FAC, sĩ quan liên lạc pháo binh và sĩ quan liên lạc trực thăng.
Pháo binh bắt đầu bắn “dọn đường” lúc 10:17 phút, đợt trực thăng đầu tiên đổ quân xuống bãi đáp X-ray lúc 10:48 phút. Trong khu vực hành quân, trung tá Moore điều động các đại đội di chuyển trong tầm yểm trợ hỗ tương lẫn nhau. Điều ông ta lo ngại nhất là đại đội xuống đầu tiên (chủ lực để tấn công) sẽ đụng nặng, nơi bãi đáp trước khi phần còn lại của tiểu đoàn xuống tiếp cứu. (Trận đánh trong thung lũng Ia Drang).
Dallas, TX. vđh
Operation Starlite ~ Vietnam War
August 17 through August 24, 1965
8 Days
45 dead; 203 wounded
Avg Death Rate was 6/day
The operation was launched on August 17, 1965, involving 5,500 Marines of the 9th Marine Amphibious Brigade.
The total Viet Cong strength was around 1,500 men. Vietcong casualties were over 500 dead.
Khoảng giữa đêm 10 tháng Sáu năm 1965, hai trung đoàn VC 762, 763 phối hợp tấn công quận lỵ và trại Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Xoài (A-342). Địch quân xử dụng một trung đoàn tấn công, trung đoàn còn lại tổ chức phục kích tại những nơi mà chúng tin rằng, quân đội VNCH và Đồng Minh có thể dùng làm bãi đáp trực thăng đổ quân, hay trục lộ di chuyển quân tiếp viện.
TRẠI LLĐB ĐỒNG XOÀI (A-342)
10/6/1965 – 12/6/1965
August 17 through August 24, 1965
8 Days
45 dead; 203 wounded
Avg Death Rate was 6/day
The operation was launched on August 17, 1965, involving 5,500 Marines of the 9th Marine Amphibious Brigade.
The total Viet Cong strength was around 1,500 men. Vietcong casualties were over 500 dead.
Khoảng giữa đêm 10 tháng Sáu năm 1965, hai trung đoàn VC 762, 763 phối hợp tấn công quận lỵ và trại Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Xoài (A-342). Địch quân xử dụng một trung đoàn tấn công, trung đoàn còn lại tổ chức phục kích tại những nơi mà chúng tin rằng, quân đội VNCH và Đồng Minh có thể dùng làm bãi đáp trực thăng đổ quân, hay trục lộ di chuyển quân tiếp viện.
Lúc 1:00 giờ sáng, đơn vị ứng chiến thuộc phi đoàn 118 Không Trợ, lên yểm trợ chiến trường. Trước sức tấn công với cả một trung đoàn VC, đến 2:30 phút sáng, trại LLĐB Đồng Xoài bị tổn thất nặng. Dân sự chiến đấu cùng các cố vấn LLĐB/HK rút về bộ chỉ huy quận.
Đến 6:00 giờ sáng, phi đoàn 118 bay lên Phước Vinh đón tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 Bộ Binh, đưa vào Đồng Xoài. Trong khi đó, trung đoàn VC ăn mặc như thường dân đã bố trí quân, chờ nơi bãi đáp. Các trực thăng Hoa Kỳ sau đợt đổ quân đầu tiên (có lẽ vì bất ngờ), nên chỉ bị trúng đạn nhỏ, bay thoát không bị rơi chiếc nào. Tuy nhiên, đại đội vừa mới được đổ xuống bị tiêu diệt trong vòng hai mươi phút.
Thấy bãi đáp đã bị phục kích, không được an ninh, lần đổ quân thứ hai, các trực thăng Hoa Kỳ đáp trên phi đạo nhỏ trong đồn điền Thanh Lợi. Nhưng khi vào đến, một đàn bò đang ở trên phi đạo nên 14 trực thăng phải đáp ra ngoài một chút. Không ngờ, một quả mìn nổ tung, tiếp theo là đạn súng cối, súng đại liên của địch rơi vào bãi đáp. Một trực thăng bị tiêu hủy, tất cả phi hành đoàn đều tử trận.
Đến gần trưa, một hợp đoàn ba chiếc trực thăng cũng thuộc phi đoàn 118 bay đi cấp cứu, đem những quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ ra khỏi trận điạ. Lực lượng DSCĐ chỉ còn một đại đội người Miên vẫn còn chiến đấu. Các phi tuần phản lực cơ Hoa Kỳ được gọi lên oanh kích, thả bom khu vực Đồng Xoài cả ngày. Đến xế chiều, các trực thăng phi đoàn 118, đổ xuống sân vận động của quận lỵ, tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân vào giải vây.
Tiểu đoàn 52/BĐQ vừa được đổ xuống sân vận động cũng bị địch đợi sẵn, pháo kích tấn công. Các cấp chỉ huy đều nghĩ đơn vị này cũng sẽ bị tiêu diệt, nhưng các binh sĩ BĐQ đã anh dũng, chống cự quyết liệt. Tiểu đoàn 52 BĐQ dưới quyền chỉ huy của đại úy Hoàng Thọ Nhu, đẩy lui địch quân ra khỏi khu vực sân vận động và tiếp tục phản công về hướng trại LLĐB Đồng Xoài và bộ chỉ huy quận. Đến buổi tối, Biệt Động Quân đã chiếm lại được trại LLĐB, căn cứ Pháo Binh VNCH và nhiều vị trí trong quận.
Trong những ngày kế tiếp, phi đoàn 118 Không Trợ Hoa Kỳ đổ thêm quân VNCH lên tiếp viện và di tản hàng trăm thương binh cùng với thường dân. Qua ngày 13 tháng sáu năm 1965, bộ chỉ huy LLĐB đưa một toán LLĐB mới A-311 đến Đồng Xoài thay cho toán A-342 LLĐB cũ, tu bổ, xửa sang lại doanh trại. Thiếu úy LLĐB Charles Q. Williams trong toán A-342, được trao huy chương Danh Dự (Medal of Honor) do sự chỉ huy sáng suốt, lòng dũng cảm của anh ta. Có lẽ đó cũng là chiếc huy chương Danh Dự đầu tiên được trao cho binh chủng LLĐB/HK.
Tổng kết trận tấn công trại LLĐB Đồng Xoài: 5 LLĐB/HK, 3 LLĐB/VN, 40 DSCĐ tử trận. 16 LLĐB/HK, 4 LLĐB/VN, 54 DSCĐ bị thương. Cùng với 124 DSCĐ mất tích. Phiá địch tổn thất 134 xác để lại tại trận, có thể nhiều hơn được đồng bọn đem đi. (Tổn thất này chỉ cho biết con số của LLĐB, chưa kể các đơn vị tham chiến hay tiếp viện).
TOÁN A-342 LLĐB/HK
Khu vực Đồng Xoài có tọa độ YT062753 trong tỉnh Phước Long. Có một phi đạo dài khoảng 3000 bộ, trên độ cao khoảng 282 bộ so với mặt nước biển. Trại LLĐB Đồng Xoài ở gần đó có tọa độ XT076759.
Ngày 25 tháng Năm 1965, toán A-342 LLĐB Hoa Kỳ được phi cơ Hoa Kỳ đưa đến Đồng Xoài để xây dựng một trại LLĐB. Căn cứ này được xây dựng nhằm mục đích ngăn chặn đường tiếp vận của địch quân từ đất Miên vào chiến khu D. Toán A LLĐB Hoa Kỳ cùng với đơn vị Công Binh Sea Bees thuộc Hải Quân Hoa Kỳ xây căn trại cho LLĐB và các cơ sở khác cho cơ quan MACV (bộ Chỉ Huy Quân Viện - Việt nam) trong quận Đôn Luân.
Thỉnh thoảng địch quân xử dụng súng cối, pháo kích vào căn cứ mới xây, để quấy rối, gây tình trạng bất an cho các quân nhân LLĐB Viet-Mỹ cùng với đơn vị dân sự chiến đấu. Vẫn chưa thấy dấu hiệu địch tập trung đơn vị cấp lớn trong khu vực Đồng Xoài.
Khoảng 1:00 giờ sáng ngày 10 tháng Sáu, trại LLĐB Đồng Xoài bị pháo kích bằng súng cối và tấn công bằng bộ binh dữ dội. Thiếu úy Charles Q. Williams bị thương vẫn chỉ huy dân sự chiến đấu chống trả quyết liệt. Đến 2:30 sáng, chịu không nổi áp lực, sức tấn công biển người của địch, các quân nhân LLĐB cùng với dân sự chiến đấu phải rút vào trong quận. sau khi trận Đồng Xoài kết thúc, thiếu úy Williams được ân thưởng huy chương Danh Dự (cao quý nhất của người Hoa Kỳ).
Trước khi các đơn vị VNCH đến tiếp viện, một toán cố vấn Hoa Kỳ được bộ Chỉ Huy Quân Viện MACV trong phi trường Tân Sơn Nhất gửi lên Đồng Xoài trên một trực thăng UH-1B thuộc phi đoàn 188 Không Trợ. Trên chiếc trực thăng do thiếu úy Walter L. Hall lái, có thêm phi hành đoàn: trung sĩ Craig L. Hagen xạ thủ đại liên, trung sĩ nhất Joseph J. Compa cơ khí, và chuẩn úy Donald Saegaert ngồi ghế phi công phụ. Các cố vấn Hoa Kỳ trong ban đặc biệt 5891, cơ quan MACV gồm có: trung sĩ nhất Robert L. Curlee y tá, đại úy Bruce G. Johnson, và trung sĩ nhất Fred M. Owens.
Khi chiếc trực thăng đáp xuống trên một phi đạo nhỏ của một đồn điền gần đó, VC pháo kích và bắn súng nhỏ tới tấp vào chiếc trực thăng. Chiếc trực thăng vội vàng cất cánh, nhưng đã bị trúng đạn, viên phi công không thể điều khiển được, bay là trên mặt đất, đâm vào mấy chiếc xe đang đậu và bốc cháy.
Một phi cơ quan sát đang bay bao vùng, liên lạc được với đại úy Johnson. Ông ta đang đứng bên cạnh chiếc trực thăng bị rơi và báo cáo, tất cả phi hành đoàn và hai người trong toán cố vấn của ông đã tử nạn. Tình hình quận Đôn Luân rất bết, không nên đưa thêm người vào khu vực bãi đáp này và địch quân vẫn còn đang pháo kích bằng súng cối.
Đến ngày 15 tháng Sáu, tình hình an ninh khu vực đã được vẫn hồi, địch quân đã rút lui. Người Hoa Kỳ mở cuộc tìm kiếm thi hài quân nhân Hoa Kỳ tại nơi chiếc trực thăng lâm nạn, nhưng không tìm được xác một nạn nhân nào. Đại úy Johnson, người liên lạc cuối cùng với máy bay quan sát cũng biến mất. Dân làng trong khu vực cho biết VC bắt sống được một người Hoa Kỳ, nhưng tin tức này không được phối kiểm. Họ cũng nói thêm, VC đã lấy xác của bẩy người Hoa Kỳ đem đi chôn.
Một cuộn phim tịch thâu được của địch “Đồng Xoài Trong Biển Lửa” cho thấy hình ảnh năm hoặc sáu xác chết của người Hoa Kỳ và mấy chiếc trực thăng bị rơi. Một trong những trực thăng bị rơi mang số 38557. Tấm thẻ bài của Owens và một phần tấm thẻ khác có chữ “ll” có lẽ Hall cũng được thấy trong cuốn phim.
Một điều chắc chắn là chiếc trực thăng bị rơi và tất cả các quân nhân Hoa Kỳ trên trực thăng đều tử nạn. Không có điều gì đáng nghi ngờ là họ vẫn còn sống (bị mất tích). Một điều chắc chắn là địch quân biết rõ số phận của họ.
Dallas, TX.
TÂN PHÚ (A-23) HIỆP HÒA (A-21)
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Tân Phú do toán A-23 gồm 12 quân nhân Mũ Xanh thuộc liên đoàn 5 LLĐB/HK xây dựng và làm cố vấn cho một toán A LLĐB Việt Nam. Trại LLĐB này được xây dựng năm 1963 trên một trại lính cũ do người Pháp để lại, trong tỉnh An Xuyên, dưới vùng 4 chiến thuật. Toán A-23 LLĐB dưới quyền chỉ huy của đại úy Humberto “Rocky” R. Versace, toán phó là trung úy Jame N. Rowe, một sĩ quan chuyên nghiệp tốt nghiệp trường võ bị West Point Hoa Kỳ.
Vì là một trong những trại LLĐB được thành lập sớm trên đồng bằng Cửu Long, các quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ, Việt Nam, cùng với lực lượng Dân Sự Chiến Đấu, do họ tuyển mộ, huấn luyện, trang bị phải chiến đấu hàng ngày để sống còn, trong khoảng thời gian từ giữa tháng Bẩy cho đến tháng Mười Hai năm 1963. Khu vực trách nhiệm của trại LLĐB Tân Phú nằm trong vùng kiểm soát của địch, và chịu áp lực rất nặng nề.
Trong lịch sử của trại LLĐB Tân Phú, có ghi lại một biến cố “chấn động” trong binh chủng LLĐB Hoa Kỳ và Việt Nam. Đó là trận phục kích của một tiểu đoàn “Chủ Lực Miền” VC xẩy ra ngày 29 tháng Mười năm 1963.
Dựa theo tin tình báo cho biết, một đơn vị địch không rõ quân số đang hiện diện gần khu vực Le Coeur, ban chỉ huy trại LLĐB Tân Phú vội vã tổ chức một cuộc hành quân “Búa Đe”. Theo kế hoạch hành quân, một đại đội DSCĐ sẽ lùa địch quân đến vị trí một đại đội DSCĐ khác đang nằm phục kích và chờ đợi. Không ngờ VC cũng có một kế hoạch phục kích đơn vị xuất phát từ trại LLĐB Tân Phú. Họ tổ chức, bố trí sẵn những ổ súng đại liên, súng cối để tiêu diệt đơn vị DSCĐ của trại. Ngoài ra, địch quân còn tìm cách phá sóng truyền tin, để đơn vị bị phục kích không thể gọi súng cối từ trong trại LLĐB, cũng như đơn vị Pháo Binh 155 ly trong căn cứ Thới Bình yểm trợ. Không liên lạc được, nên Không Quân cũng không vào yểm trợ cho quân bạn đang bị vây khốn.
Trong một quyển sách viết về trận phục kích này, tác giả Leigh Wade nói rằng, đơn vị DSCĐ bị giết khoảng 60 người, một con số tương tự DSCĐ bị thương. Những DSCĐ bị địch bắt, bị trói tay, nằm xấp thành hàng dài và bị bắn vào đầu.
Trong số quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ bị bắt sống gồm có: đại úy Humberto “Rocky” R. Versace trưởng toán A-23 LLĐB, trung úy James “Nick” N. Rowe toán phó, trung sĩ nhất y tá Dan Pitzer. Cả ba người đều bị thương, được VC tha chết vì chúng muốn bắt sống quân nhân LLĐB Hoa Kỳ để tuyên truyền. Họ bị đưa vào mật khu trong rừng U Minh. Mỗi người bị biệt giam trong “cũi tre”, và bị cùm chân.
Cuối tháng Mười, tại trại LLĐB Hiệp Hòa (A-21), khoảng giữa Saigon và biên giới Việt-Miên, có mấy cán binh VC đến đầu thú, họ nói rằng muốn đào ngũ, trở về với quốc gia. Gần một tháng sau, ngày 24 tháng Mười Một năm 1963, sau nửa đêm, trại LLĐB Hiệp Hòa bị khoảng 400-500 VC tấn công, tràn ngập. Những cảm tình viên với VC làm nội tuyến, giết lính canh gác, chiếm pháo đài đặt súng đại liên, trước khi quân VC vào chiếm trại LLĐB.
Trung úy John Colby toán phó A-21 LLĐB/HK trốn thoát, đại úy trưởng toán Doug Horne may mắn đi với một trung đội 36 DSCĐ ra ngoài, trước khi căn cứ bị nội tuyến, tấn công. Địch quân bắt sống được bốn quân nhân Mũ Xanh LLĐB/HK đang có mặt trong trại. Trong cuộc chiến Việt Nam, trại LLĐB Hiệp Hòa là trại đầu tiên bị tràn ngập.
Những quân nhân bị bắt trong trại LLĐB Hiệp Hoà gồm có: trung sĩ nhất Issac “Ike” Camacho, trung sĩ nhất Kenneth M. Roraback truyền tin, trung sĩ George E. “Smitty” Smith, và hạ sĩ Claude McClure. Lúc mới bị bắt, họ bị giam trong mật khu nơi hướng tây nam Hiệp Hòa, sau đó di chuyển vào rừng U Minh.
“Ike” Camacho lúc nào cũng tìm cách trốn, trong tháng Bẩy năm 1965, anh ta thành công. Anh ta cùng với Smith được tháo cùm, để địch quân có đủ cùm mấy quân nhân Hoa Kỳ mới bị bắt. Và trong một đêm mưa gió, lợi dụng trời tối, Camacho trốn thoát đến làng Minh Thạnh. Anh ta là quân nhân Hoa Kỳ đầu tiên trốn thoát khỏi trại tù binh VC. McClure và Smith được trả tự do trên đất Miên trong tháng Mười Một năm 1965.
Đại úy “Rocky” Versace, trưởng toán A-23 LLĐB/HK trại Tân Phú, là một người nặng tín ngưỡng. Trước đó ông ta đã được nhận vào trường võ bị West Point, nhưng muốn làm linh mục nên chọn trường dòng Mary Knoll, trước khi sang Việt Nam chiến đấu. Ông ta nói thông thạo hai ngôn ngữ Anh, Việt, và đã có “vấn đề” đối với bọn VC khi mới bị bắt. Mặc dầu nhiều người biết đại úy Versace rất có nhiều cảm tình đối với người Việt (thông thạo tiếng Việt), nhưng ông ta rất chống đối chủ nghiã cộng sản, cách mạng... và bọn cai tù cô lập riêng ông ta.
Mấy tháng đầu lúc mới bị bắt, hai đàn em của đại úy Versace là trung úy Rowe và trung sĩ Pitzer thỉnh thoảng trông thấy ông ta. Vẫn bất khuất, tìm cách trốn mặc dầu lúc đó sức khoẻ đã tàn tạ. Đến tháng Giêng năm 1965, mái tóc của ông ta đã bạc trắng.
Ngày Chủ Nhật, 26 tháng Chín năm 1965, đài phát thanh “Giải Phóng”, đọc bản tin hành quyết đại úy Versace và trung sĩ nhất Kenneth Roraback để trả thù cho cái chết của ba tên khủng bố ngoài Đà Nẵng. Nhưng sau đó có tài liệu cho rằng nguồn tin đó không đúng, để “dọa” người Hoa Kỳ, nhưng quân đội Hoa Kỳ đã không mở cuộc điều tra. Trung sĩ y tá LLĐB Pitzer được trả tự do trên đất Miên trong tháng Mười Một năm 1967.
Trung úy James “Nick” N. Rowe sẽ bị hành quyết vào cuối tháng Mười Hai năm 1968. Những cai tù VC đã thấy quá đủ, vì Rowe vẫn không chấp nhận chủ nghiã cộng sản và vẫn luôn tìm cách trốn. Trong tháng Mười Hai năm 1968, hai cai tù áp tải Rowe đến một nơi khác, bỗng một trực thăng Hoa Kỳ đang bay trên không phận rừng U Minh trông thấy ba tên VC trong bộ bà ba đen, lao xuống bắn. Phản ứng nhanh chóng, trung úy Rowe chạy ra khoảng trống đưa cả hai tay lên vẫy. Chiếc trực thăng quay trở lại để bắn tên VC gan lì dám chạy ra khoảng đồng trống. Nhưng khi bay lại gần, thấy tên VC trong bộ bà ba đen, râu ria tùm lum không như người Việt Nam, nên đáp xuống cứu thoát. Chấm dứt 5 năm trong “hỏa ngục”.
Trung úy James Rowe ở lại với quân đội đến năm 1974, lên trung tá rồi giải ngũ. Năm 1987 được gọi tái ngũ và đưa qua Phillipine, huấn luyện LLĐB Phillipine chống du kích cộng sản. Ngày 21 tháng Tư năm 1989, ông ta bị phục kích giết chết.
Trong số bẩy quân nhân LLĐB/HK bị bắt từ hai trại LLĐB Tân Phú, Hiệp Hòa, số phận của hai người, đại úy Versace và trung sĩ Roraback đến nay vẫn không có tin gì thêm.
Theo tài liệu: http://www.arlingtoncemetery.net/jamesnic.htm
Dallas, TX.
vđh
TRẠI LLĐB BÙ ĐỐP (A-341)
Jim Meade
Khi mới sang Việt Nam năm 1965, tôi được thuyên chuyển đến làm việc trong một bộ chỉ huy B LLĐB Hoa Kỳ. Mấy tay “anh chị” LLĐB trông rất ngầu, nhưng họ có vẻ thích một người Không Quân đến làm việc, yểm trợ cho họ. Trong khi đó, tôi có cảm tưởng sẽ phải chịu đựng một năm dài phục vụ tại Việt Nam.
Thời gian đó khoảng giữa năm 1965, khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy B LLĐB là một tỉnh bị địch đe dọa nặng nề nhất trong vùng 3 chiến thuật, Phước Long. Muốn tiến về Saigon, địch quân phải “bứng” những trại LLĐB trong tỉnh: Sông Bé, Bù Đốp, Đồng Xoài, và Bù Gia Mập sẽ phải di tản chiến thuật.
Qua sự phối hợp chặt chẽ với QL/VNCH, Không Quân, Lục Quân Hoa Kỳ, các trại LLĐB bị tấn công, bị mất nhưng vẫn phản công lấy lại nhanh chóng. Phi công FAC bao vùng khu vực hành quân (Phước Long) lúc đó là đại úy Larry Reed danh hiệu “Viper 3”, đã bị bắn rơi và bị thương ba bốn lần, nhưng vẫn bay “đều đều”. Trong thời gian đó, đám Không Quân chúng tôi chỉ có hai hoặc ba chiếc FAC, một nhân viên cơ khí cho loại phi cơ quan sát L-19 (FAC) và tôi lo nhiệm vụ truyền tin, liên lạc. Chúng tôi vẫn làm tròn bổn phận, nhiệm vụ, phi cơ FAC vẫn bay thám thính, điều động các trận đánh bom, không yểm, không cho địch tập trung quân để mở những trận tấn công. Đôi khi vì thiếu người, phi công hoặc một binh sĩ LLĐB phải bơm xăng, chất hỏa tiễn khói trắng lên máy bay, trong khi chuyên viên cơ khí, xem lại máy móc.
Sau những trận tấn công của hai trung đoàn VC 762 và 763 từ tháng Năm đến tháng Bẩy, các đơn vị Đồng Minh trong tỉnh lo củng cố việc phòng thủ, bổ sung quân số. Các cuộc hành quân trên bộ lúc đó chỉ còn những đơn vị nhỏ đi tuần tiễu, an ninh khu vực. Quân đội Đồng Minh mở các cuộc hành quân mở đường từ Sông Bé đi Đồng Xoài, Sông Bé lên Bù Đốp để lấy lại lòng tin dân chúng trong các làng lân cận. Một cuộc hành quân khác đưa dân chúng trong các làng xa xôi hẻo lánh đến những nơi tương đối an ninh hơn.
Việc hành quân giải tỏa con đường từ Sông Bé đi Đồng Xoài đã được thực hiện trước đây với kết qủa “xáo trộn”. Cả hai đơn vị Dân Sự Chiến Đấu (Đồng Xoài, Sông Bé) phải chiến đấu, chạy trở về căn cứ của mình. Tiếp theo là những trận đánh bom của Không Quân Việt-Mỹ kéo dài mấy tuần lễ, cấp chỉ huy ở trên tin rằng địch quân đã “chết hết” hoặc phải “bỏ xứ đi nơi khác làm ăn”, nên lại ra lệnh mở đường.
Như lần trước, hai đại đội DSCĐ do LLĐB Việt-Mỹ chỉ huy, phát xuất từ trại LLĐB Đồng Xoài tiến quân lên hướng bắc, trong khi đó “chúng tôi” gồm tiểu đoàn 36 Biệt Động Quân Việt Nam, một trung đội DSCĐ và bốn người trong nhóm LLĐB/HK, tiến quân về hướng nam để bắt tay với cánh quân từ phiá nam lên. Tôi mang máy truyền tin liên lạc trong ban chỉ huy đơn vị Biệt Động Quân ở phiá sau, trên phi đạo bỏ hoang của một đồn điền do người Pháp làm chủ, ở Phước Bình, cách Sông Bé khoảng 20 cây số về hướng tây nam.
Trong suốt cuộc tiến quân, cho đến khi hai đơn vị bắt tay, cả hai hướng đều có những cuộc chạm súng nhỏ với đám du kích. Nhưng, trên đường trở về căn cứ, đơn vị DSCĐ Đồng Xoài lo sợ bị địch tấn công ở khu vực đồn điền cao su Michelin, Thuận Lợi. Tiểu đoàn Biệt Động Quân ở Sông Bé, chạm súng với địch trong khu vực gần đồn điền Phú Riêng.
Biệt Động Quân rơi vào ổ phục kích hình chữ ‘L’, không tiến lên hướng bắc được. Lúc đó trời đã tối, không thể gọi phi cơ oanh kích, và không rõ vị trí chính xác của các đại đội BĐQ. Trong toán LLĐB đi theo BCH tiểu đoàn BĐQ, binh nhất Roberts, người thông ngôn, thêm hai binh sĩ DSCĐ tấn công vào phần dưới đội hình phục kích chữ ‘L’, các đại đội BĐQ tấn công phần còn lại, làm địch quân phải rút lui.
Trận phục kích tiểu đoàn BĐQ chứng tỏ hai trung đoàn của địch vẫn còn để lại một vài đơn vị trong khu vực. Ít lâu sau lữ đoàn 173 Nhẩy Dù Hoa Kỳ được các đơn vị Úc Đại Lợi, Tân tây Lan yểm trợ mở cuộc hành quân càn quét trong khu vực nhưng địch quân đã rút đi, không có những trận đụng độ lớn.
Kế tiếp là cuộc hành quân đưa dân chúng trong các làng xa xôi hẻo lánh ra những khu định cư yên ổn. Lần này phải bảo vệ dân, nên được phi cơ yểm trợ mạnh mẽ, thả bom những khu vực tình nghi địch quân tập trung. Hầu hết dân làng đã chuẩn bị ra đi, mặc dầu phải bỏ lại căn nhà thân yêu, ruộng vườn của họ. Trước đây VC kiểm soát, bắt họ đóng thuế, lấy đi một phần thâu hoạch hoa mầu, nên người dân sống rất lam lũ, không đủ ăn.
Tôi đi cùng đại úy Reed lên căn cứ hành quân tiền phương trong giai đoạn đầu của cuộc hành quân. Sau đó ông ta đi Sông Bé gặp đại úy Fred Huppertz “Viper IV” và trung úy Stretch “Viper VI”, để yêu cầu máy bay quan sát FAC bay bao vùng cho cuộc hành quân. Cũng nhờ có máy bay quan sát bao vùng và không quân yểm trợ, nên địch chỉ có những toán quân nhỏ bắn quấy phá trong cuộc hành quân “di dân”.
Tiếp theo là hành quân mở đường từ Sông Bé đi Bố Đức. Cuộc hành quân dự trù sẽ có đụng độ lớn, nhưng lại êm xuôi. Đêm trước khi cuộc hành quân bắt đầu, Bộ Binh QL/VNCH đã cho những toán quân đi trước nằm đường, họ giết đuợc giao liên VC đi xe đạp. Cả tiểu đoàn BĐQ, cùng với LLĐB/HK chỉ huy đơn vị DSCĐ tham dự cuộc hành quân. Tôi ngồi trên xe Jeep cùng với một trung sĩ nhất LLĐB/HK và người thông ngôn tên Mỹ là “George”, gần cuối đoàn quân xa đi lên hướng bắc.
Đoàn xe di chuyển rất chậm, chậm hơn chuyến mở đường đi Đồng Xoài trước đây. Nhiều đoạn đường bị cắt, địch quân đã đào nhiều hầm hố, giao thông hào, nhưng đã bỏ đi, và nhiều con suối nhỏ cắt ngang đường. Chúng tôi tiếp tục đi lên Bố Đức mà không có tiếng súng của địch. Quận lỵ này đã bị cô lập với bên ngoài từ lâu, đoàn xe chở lên tiếp tế gạo và những nhu yếu phẩm khác trên năm xe GMC, để phân phát cho dân chúng. Trong khi cấp chỉ huy BĐQ, LLĐB tiếp tay phân phối đồ tiếp tế cho dân chúng, đoàn xe quay đầu chuẩn bị cho chuyến trở về.
Trên đường trở về Sông Bé, khi đoàn xe đi ngang đồn điền cao su Riêng Riêng, địch pháo kích bằng súng cối, làm mấy binh sĩ BĐQ bị thương. Các chiến sĩ BĐQ phản ứng cấp thời, nhẩy xuống xe, tấn công vào bìa rừng. Tiếp theo là tiếng súng đại liên, tiểu liên nổ dòn về phiá bên phải đoàn xe. Sau đó LLĐB/HK gom đơn vị DSCĐ lại tiếp tục cuộc hành trình, để lại chiến trường cho tiểu đoàn BĐQ thanh toán.
Chúng tôi về đến Sông Bé an toàn. Ít lâu sau sư đoàn 1 Không Kỵ (1st Air Cav) hoặc sư doàn Dù 101 càn quét khu vực Bố Đức, nhưng cũng như lần trước địch quân đã rút lui qua biên giới Miên.
Một cuộc hành quân khác do LLĐB, DSCĐ Bù Đốp tổ chức riêng rẽ. Theo kế hoạch, lực lượng DSCĐ Bù Đốp sẽ càn quét về hướng tây đến Lộc Ninh, sau đó sẽ làm nút chặn không cho địch quân rút qua biên giới Việt-Miên. Các đơn vị Hoa Kỳ, có lẽ thuộc sư đoàn 1 Bộ Binh sẽ hành quân trực thăng vận, sau khi DSCĐ đã tổ chức xong tuyến án ngữ. Để hoàn thành nhiệm vụ này, trại LLĐB Bù Đốp “tổng động viên”, tất cả những ai không đau ốm, cầm súng được đều phải đi hành quân.
Lúc đó tôi nghĩ rằng, mình có thể di chuyển lên trại LLĐB Bù Đốp để thiết lập hệ thống truyền tin, có lẽ hiệu quả hơn ở Sông Bé, và có thể cung cấp cho LLĐB một nhân viên truyền tin để liên lạc (trung sĩ nhất Trimiar, một người bạn ở Sông Bé). Chỉ cần hai chúng tôi, thêm vài DSCĐ có thể “trông nom” trại LLĐB, còn những người khác đều có thể đi hành quân. Phi công FAC, đại úy Huppertz đưa tôi lên Bù Đốp cùng với máy móc dụng cụ, một ngày trước khi cuộc hành quân bắt đầu.
Đúng 2:00 giờ sáng, DSCĐ lặng lẽ rời căn cứ lên đường. Đoàn quân đi chưa được xa, khoảng bốn cây số, toán quân tiền phương chạm địch trong làn sương buổi sớm mai. Họ đi vào một trạm đóng quân nhỏ của địch, có nhiều dây điện thoại đi về hướng tây. Khi nhận được công điện tôi vội vàng báo cáo về BCH ở Biên Hòa và thông báo cho sư đoàn 1 BB/HK để họ sẵn sàng nhẩy vào vòng chiến. Vài phút sau, DSCĐ vào đến một căn cứ chính của địch và địch quân quyết liệt hơn. Thực ra đó là đơn vị nhỏ của địch nằm lại cản cho phần lớn đơn vị rút lui. Yếu tố bất ngờ cho lực lượng DSCĐ không còn nữa, dự tính di chuyển lên Lộc Ninh làm nút chặn tiêu tan.
Lục soát căn cứ, hầm hố của địch, DSCĐ khám phá một điều ngạc nhiên. Trong số tử thi có một người ăn mặc quân phục không phải VC, và cũng không giống người Việt Nam. Trong trại LLĐB Bù Đốp, tôi nhận được thêm một báo cáo và phải gửi về Biên Hoà (BCH/C3/LLĐB). Mọi chuyện êm xuôi, sau đó một công điện gửi lên hành quân, ra lệnh chuẩn bị và đánh dấu một bãi đáp trực thăng (có người lên thăm hoặc thanh tra).
Không bao lâu, một đoàn trực thăng bay lên hành quân, trên một trực thăng có đại tướng Westmoreland, tư lệnh Bộ Chỉ Huy MACV. Ông ta đến thăm đơn vị hành quân và đích thân muốn nhìn xác một người của phiá bên kia mà không phải người Việt. Cho đến ngày hôm nay, tôi cũng không biết thêm chi tiết về xác chết đó.
Đại đơn vị của địch đã thoát qua bên kia biên giới, đơn vị DSCĐ được lênh quay trở về căn cứ. Ngày hôm sau, trung úy Kaiser “Viper 9”, đáp chiếc FAC xuống trại LLĐB Bù Đốp đưa tôi trở về Sông Bé. Ngồi trên máy bay quan sát, chúng tôi đồng ý, bay dọc theo biên giới để tìm xem địch quân đã chạy thoát qua biên giới bằng ngã nào. Khoảng giữa Bù Đốp và Lộc Ninh về hướng tây, chúng tôi trông thấy một giòng sông rộng, hai bên bờ là bãi cát hình như có vết bùn, có người đi lại. Tiếp tục bay về hướng tây, chúng tôi trông thấy một xóm nhà mà cả hai chúng tôi chưa từng nghe nói tới. Tôi chụp vài tấm không ảnh đem về. Khi trình lên cấp chỉ huy, ông ta chỉ nói với tôi, giữ lấy cho riêng anh, không nên nói với ai... các anh đã bay qua đất Miên.
Dallas, TX.
vđh
TRẠI LLĐB BUÔN BLECH (A-238)
Trong tháng Tám năm 1967, tôi trở lại Việt Nam lần thứ hai, lần trước tôi đã phục vụ sáu tháng trong liên đoàn 1 LLĐB/HK, đồn trú ở Okinawa, được đưa sang Việt Nam trong đơn vị 400 An Ninh Hành Quân Đặc Biệt. Lần này tôi nhận lệnh làm việc trong đơn vị 403 Kiểm Thính Hành Quân Đặc Biệt. Hy vọng sự thay đổi trong ngành “An ninh Lục Quân” sẽ làm bối rối địch quân, không biết nhiệm vụ chính thức của đơn vị.
Trong chuyến qua Việt Nam lần trước 1965, chúng tôi có một đài kiểm thính đặt trong trại Lực Lượng Đặc Biệt Trảng Sụp (A-301) trong điạ phận tỉnh Tây Ninh. Trại LLĐB Trảng Sụp có hai toán A LLĐB/HK, một toán chỉ huy trại LLĐB, toán kia đảm nhận việc huấn luyện lực lượng Dân Sự Chiến Đấu cho tất cả các trại LLĐB trong tỉnh Tây Ninh. Tổng cộng, lúc nào cũng có gần 1000 quân trong căn cứ. Trong số đó, tôi nghi ngờ có khoảng 5 đến 10% là VC hoặc có cảm tình với địch quân. Trong hầm của quân nhân LLĐB/HK có đầy đủ vũ khí, đạn dược, xung quanh là lớp bao cát... đề phòng một “Alamo” thứ hai.
Bạn lúc nào cũng phải đề phòng, chỉ cần một tên VC ném qủa lựu đạn vào trong hầm là đủ. Trong những năm đầu của cuộc chiến, hầu hết các cuộc hành quân phát xuất từ trại LLĐB Trảng Sụp gần như giống nhau. Ra khỏi căn cứ vào lúc sáng sớm, và di chuyển vào trong rừng trước khi toán quan sát, theo dõi của địch trên núi Bà Đen, trông thấy đoàn quân.
Trong thời gian làm việc trong căn cứ Trảng Sụp, tôi thường ngủ trong phòng khám bệnh, phát thuốc (bệnh xá trong trại LLĐB). Cho chắc ăn, tôi xin được một con chó, đặt tên là “Old Yeller”. Trong chuyến sang Việt Nam đầu tiên, phục vụ nơi một tiền đồn biên phòng, mấy con chó của binh sĩ Việt Nam (có thể là người Thượng hay Miên) trông thấy tôi mặc sức sủa hơn hai tuần lễ, cho đến khi chấp nhận tôi là người “bạn”.
Một đêm, tôi thức giấc vì tiếng gầm gừ của con “Old Yeller”, tôi với khẩu súng trường M-14, hé mắt nhìn ra dẫy hành lang phòng khám bệnh. Một binh sĩ dân sự chiến đấu đứng lui vào bên trong hành lang, sau cánh cửa, đang xử dụng đèn bấm mầu đỏ, gửi tín hiệu lên núi Bà Đen. Anh ta bận với công việc, không để ý xung quanh, cho đến khi tôi dí mũi súng M-14 vào đầu, rồi áp tải đương sự lên phòng làm việc của ban chỉ huy trại.
Đó là những gì tôi còn nhớ trong chuyến sang Việt Nam lần đầu. Lần thứ hai, tôi đến Pleiku trong tháng Tám năm 1967, sau mười tháng điều trị bệnh lao mà tôi mắc phải trong chuyến thứ nhất. Tiếp theo là sáu tháng huấn luyện trong Ft. Mead do cơ quan An Ninh Quốc Gia đảm trách, rồi khóa Biệt Động Quân. Tôi đã sẵn sàng làm việc.
Trong bốn mươi lăm ngày đầu, tôi làm việc trên đồi “Engineer Hill”, một bộ chỉ huy B thuộc liên đoàn 5 LLĐB/HK. Cũng không có nhiều thay đổi trong hai năm qua, khi tôi rời Việt Nam. Trung tá Faistenhammer chỉ huy trưởng căn cứ là một người có nhiều điểm đặc biệt, gốc người Đức. Ông ta rời quê hương Bavaria đến Hoa Kỳ khoảng năm 1936, và trở về cố hương năm 1944, lúc đó là một quân nhân trong sư đoàn 4 Thiết Giáp. Khi chiến tranh Hàn Quốc chấm dứt, ông ta là một sĩ quan Pháo Binh. Sau một chuyến phục vụ trong chiến dịch “Sao Trắng” ở Lào, và mấy chuyến ở Việt Nam. Viên sĩ quan này đã dành nhiều thời gian phục vụ trong các đơn vị tác chiến. Mười bẩy năm sau, tôi trở nên một thượng sĩ Thường Vụ trong đại đội A, tiểu đoàn 3, liên đoàn 10 LLĐB/HK và đơn vị trưởng là thiếu tá William L. Faistenhammer, con trai của cấp chỉ huy của tôi lúc ở Việt Nam. Cả hai người đều là sĩ quan xuất sắc.
Trước cuộc bầu cử Tổng Thống VNCH năm 1967, tôi nhận lệnh thuyên chuyển đi Buôn Blech (A-238), cùng với hai kiểm thính viên. Trại LLĐB này nằm trên núi nhìn xuống khu vực xung quanh. Tôi thích căn cứ này vì địch quân phải tấn công lên núi thay vì nơi điạ thế bằng phẳng. Ba chúng tôi đồng ý, nếu di chuyển về hướng gần biên giới Việt-Miên, chúng tôi sẽ bắt được nhiều điện văn của địch quân hơn, và sẽ cung cấp nhiều tin tức tình báotác chiến tốt hơn cho trại LLĐB Buôn Blech.
Khi càng đến gần ngày bầu cử, trung sĩ an ninh (tôi nhớ không lầm là trung sĩ nhất Jerry Clark) bắt được một công điện cho biết họ (VC/Bắc Việt) sẽ tấn công trại LLĐB Buôn Blech, để cho thấy sự yếu kém của chính quyền miền nam Việt Nam. Vài đêm sau, địch pháo kích bằng súng cối nhưng đạn rơi bên ngoài tuyến phòng thủ, không gây thiệt hại.
Trại LLĐB Buôn Blech được xây theo hình vuông, vấn đề an ninh trong trại cũng đỡ hơn những nơi khác. Mỗi buổi tối, mấy tổ năm người được lệnh ra ngoài căn cứ tổ chức những ổ phục kích. Họ được lệnh đem theo mìn Claymore, khi gặp địch quân, cho nổ qủa mìn, bắn hết băng đạn rồi rút lui về căn cứ.
Đêm hôm đó một qủa mìn Claymore nổ tung, trong trại lập tức báo động, sẵn sàng chiến đấu. Khẩu súng cối 81 ly trong trại bắn những qủa đạn chiếu sáng về hướng phát ra tiếng nổ. Vị sĩ quan LLĐB chỉ huy căn cứ, ra lệnh không được bắn, cho đến khi có lệnh của ông ta. Qua ánh sáng hỏa châu, tôi trông thấy bóng người di chuyển bên ngoài hàng rào trại LLĐB, bèn báo cáo lên nhưng ông ta hỏi lại “có chắc không?”. Thật ra đó là toán phục kích đang trên đường rút lui về căn cứ.
Sau đó mọi việc trở lại bình thường. Sáng hôm sau, tôi được biết, một đơn vị VC di chuyển về hướng trại LLĐB, có lẽ định tấn công, đụng phải ổ phục kích. Không may cho địch quân, cấp chỉ huy cùng chính trị viên đơn vị bị chết vì qủa mìn Claymore, nên phải hủy bỏ trận tấn công.
Dallas, TX.
vđh
TRẠI LLĐB THIỆN NGÔN (A-323)
1LT David Fetters, XO of A323, Camp Thien Ngon, from March through August, 1969.
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Thiện Ngôn nằm trong quận Phước Ninh, tỉnh Tây Ninh, gần biên giới Việt Miên. Đó là một trại “Năm Sao” có hình dáng ngôi sao năm góc là tuyến phòng thủ chính của căn cứ. Ngay trước cổng chính có một bãi đáp trực thăng nhỏ, vẫn nằm trong chu vi phòng thủ doanh trại. Bên trong tuyến phòng thủ chính (ngôi sao) có một toán A (A-323) LLĐB/HK, toán A LLĐB/VN, nhà ăn, bãi đậu xe, một ụ súng cối lớn cho hai khẩu 81 ly và hai khẩu 4.2” (inches), máy phát điện, và ba khẩu đại bác 105 ly do binh sĩ LLĐB/HK xử dụng.
Cũng như các trại LLĐB khác, trại Thiện Ngôn có một phi đạo đắp đất, đặt tên là đường 22, chạy từ Tây Ninh, qua Trai Bí, và ngang qua trại LLĐB đến Xa Mát ngay biên giới Việt Miên, cách trại khoảng tám cây số về hướng bắc. Con đường này có hai chiều, nhưng hoàn toàn không xử dụng được vì thường bị phục kích và gài mìn.
Trại LLĐB Thiện Ngôn được xây dựng như một căn cứ phòng thủ, trong khu vực oanh kích, tác xạ tự do, không có làng mạc, dân chúng xung quanh. Căn phòng dài, dùng làm nơi làm việc, chỗ ngủ, nghỉ ngơi cho các quân nhân LLĐB/HK là một pháo đài, với những thùng sắt connex làm phòng cho mỗi người. Vị trưởng toán A LLĐB chiếm một connex nơi đầu dẫy, tôi ở cuối và năm quân nhân Mũ Xanh khác chen vào giữa. Một phòng mạch khám bệnh cho bác sĩ ngay sát cửa ra vào, phòng truyền tin chứa máy móc, dụng cụ truyền tin và một phòng nghỉ ngơi, giải trí chung cho tất cả mọi người.
Có tất cả năm đại đội dân sự chiến đấu, ba đại đội người Thượng và hai người Miên. Vợ con của họ cũng ở đó luôn, sống trong những pháo đài, hầm hố, xung quanh chu vi, tuyến phòng thủ căn cứ. Chúng tôi có một trung đội viễn thám người Thượng, nhưng cũng thường. Đơn vị được tin tưởng, thường đóng quân trong rừng, bên ngoài căn cứ là người Miên.
Đã có lần, một đại đội Công Binh Hoa Kỳ đến Thiện Ngôn, dựng tạm căn cứ dã chiến làm việc bên cạnh trại LLĐB Thiện Ngôn. Trong một tháng trời, đại đội công binh đổ đường, tráng nhựa, xây lại phi đạo cho vận tải cơ C-123 lên xuống, đem đồ tiếp tế đến cho trại LLĐB.
Xung quanh căn cứ, khoảng cách 150 thước, cây cối đều bị đốn ngã để tăng thêm độ an ninh, tuy nhiên cỏ tranh cao từ sáu đến tám bộ, cao hơn đầu người Việt, vẫn mọc tràn lan. Chúng tôi làm hàng rào, gài mìn chiếu sáng, mìn Claymore chống biển người và cả mìn chống chiến xa nữa xung quanh trại. Cho chắc ăn, trại LLĐB rải thêm thuốc khai quang và sâu trong rừng vẫn có những tiền đồn, để báo động khi địch tập trung quân tấn công.
Như đã nói ở trên, khu vực trách nhiệm của trại LLĐB Thiện Ngôn là vùng oanh kích tự do. Mọi sự di chuyển trong vùng nếu không phải của quân trú phòng LLĐB đều là mục tiêu cho phi cơ oanh kích và pháo binh tác xạ. Lúc nào cũng có những cuộc hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Các đại đội dân sự chiến đấu dưới quyền chỉ huy của LLĐB Việt-Mỹ thay phiên nhau, khi có một đại đội hết hạn hành quân, trở về căn cứ, một đại đội khác đã chuẩn bị ra đi.
Đôi khi trại LLĐB tổ chức hành quân xa với hai đại đội 180 binh sĩ dân sự chiến đấu, 2 quân nhân LLĐB/HK, 2 LLĐB/VN, một ban chỉ huy với khoảng từ 6 đến 8 binh sĩ người Miên, đem theo máy truyền tin. Đôi khi đem theo trung đội viễn thám. Những chuyến đông đủ như vậy, thường đi xa hơn và kéo dài ba ngày.
Trong sáu tháng phục vụ trong trại LLĐB Thiện Ngôn, tôi tham dự hai trong số ba cuộc hành quân trực thăng vận. Cũng kéo dài ba ngày, nhưng chúng tôi được trực thăng đưa ra một góc tận cùng trong khu vực trách nhiệm và lục soát ngược trở về trại. Nhiệm vụ chính cho các cuộc hành quân vẫn là tìm kiếm dấu vết các hoạt động của địch, ngăn chặn, tấn công nếu gặp.
Khu vực trách nhiệm của trại bằng phẳng, rừng rậm, cành lá che phủ mặt đất âm u. Có những khoảng trống, không có cây lớn, chỉ có cỏ tranh cao đến đầu gối, và không giải thích được. Có một giòng sông chẩy theo hướng tây nam lên đông bắc, mực nước thay đổi theo mùa, rộng khoảng 30 đến 50 bộ, và rất nhiều điả.
Thỉnh thoảng chúng tôi mới gặp VC (đơn vị du kích điạ phương), chúng chỉ xuất hiện khi xuống sông lấy nước, nơi hướng nam khu vực trách nhiệm. Còn quân chính quy của địch, đóng trong các căn cứ, binh trạm xây trên đất Miên, bên kia đường biên giới. Tôi thường trông thấy họ trong những chuyến bay thám thính. Gặp những đơn vị chính quy từ miền bắc vào, họ không thèm bắn lên, đưa tay vẫy. Hình như họ biết, quân đội Đồng Minh không có quyền tấn công qua đất Miên, trừ khi họ bắn lên trước.
Trong thời gian tôi ở Thiện Ngôn, địch thường bắn quấy rối, chỉ có một trận tấn công đáng kể, nhằm vào đơn vị công binh Hoa Kỳ đang làm đường. Chúng tôi trên đường trở về căn cứ sau chuyến hành quân lục soát nơi hướng nam khu vực trách nhiệm. Đơn vị bố trí, đóng quân đêm cách trại LLĐB khoảng 2, 3 cây số về hướng nam. Đêm đó căn cứ đóng quân tạm của đơn vị công binh bị một đơn vị địch xuất hiện trong khoảng giữa chúng tôi và căn cứ tấn công.
Nằm sau lưng địch quâ, chúng tôi nhìn rõ những làn đạn lửa mầu xanh của địch bay về hướng căn cứ, và đạn lửa mầu đò từ trong trại bay về hướng chúng tôi. Người trại trưởng ra lệnh cho chúng tôi nằm yên tại chỗ tránh đạn của phe ta. Không cần phải nhẩy vào trận chiến, vì hỏa lực của đơn vị công binh mạnh hơn. Quả nhiên, một lúc sau, tiếng súng chấm dứt, địch quân đã rút lui ra khỏi bãi chiến trường.
Căn cứ cũng bị địch quân pháo kích bất thường, nhiều tuần lễ yên tĩnh, tuần khác nhận được hơn 250 quả đạn súng cối, đa số là đạn 61 và 82 ly. Thỉnh thoảng địch pháo kích bằng hỏa tiễn 107 và loại lớn 122 ly. Trước khi tôi thuyên chuyển đến trại LLĐB Thiện Ngôn, một hỏa tiễn 122 ly rơi trúng hầm ban chỉ huy trại, làm cho một y tá tử thương.
Trong những lần ra ngoài hành quân, lục soát, chúng tôi thường gặp lựu đạn bẫy mìn bẫy đã cũ phải tiêu hủy. Và lục soát xung quanh phi đạo hàng ngày, để giữ an toàn cho các chuyến máy bay tiếp tế đáp xuống căn cứ.
Dallas, TX.
vđhTrưởng Trại LLDB Thiện Ngôn và Phu Nhân
Captain Gerald R. Cossey
Lời giới thiệu:
Đêm 3 tháng Ba năm 1969, các chiến xa thuộc trung đội 1, đại đội B, tiểu đoàn 1, trung đoàn 69 Thiết Giáp Hoa Kỳ dàn trận với năm chiến xa lội nước PT-76 do Nga Sô chế tạo cùng với nửa chục thiết vận xa BMP-40 quân đội Bắc Việt. Đó là trận đánh giữa hai đoàn chiến xa từ khi quân đội Hoa Kỳ qua Việt Nam tham chiến, đến trước khi trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 xẩy ra.
Đại đội Bravo chiến xa Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy của đại úy John Stovall loại khỏi vòng chiến hai chiến xa, một thiết vận xa. Đơn vị chiến xa địch quân phải rút lui, bỏ dở mục đích tấn công trại Lực Lượng Đặc Biệt Ben Het.
Trại LLĐB này là một trong bẩy trại biên phòng, được quân Mũ Xanh Hoa Kỳ thiết lập nhằm theo dõi, ngăn chặn sự chuyển quân của quân đội Bắc Việt từ hai nước láng giềng Lào và Miên vào miền nam Việt Nam. Từ hướng bắc xuống, bẩy trại LLĐB gồm có: Ben Het, Plei Djereng, Đức Cơ, Tieu Atar, Ban Don, Đức Lập và Bu Prang. Khi địch quân tăng cường áp lực vào khu vực Dak To, các trại biên phòng này được tăng cường thêm quân.
Trại LLĐB Ben Het có một toán A mười hai quân nhân Mũ Xanh, liên đoàn 5 LLĐB/HK, một toán A LLĐB/VN và khoảng chừng 200 quân thuộc Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu (CIDG). Thỉnh thoảng, căn cứ được hai khẩu đại bác 175 ly gắn trên xe thiết giáp M-107, thuộc tiểu đoàn 7, trung đoàn 15 Pháo Binh Hoa Kỳ lên “thăm viếng”, tác xạ theo yêu cầu.
Bình thường, tiểu đoàn Pháo Binh cơ động Hoa Kỳ đưa hai khẩu đại bác 175 ly cùng với đồ tiếp vận lên khu vực Ben Het bắn phá, ngăn chặn những nơi địch di chuyển trên đường mòn HCM, hoặc những nơi tình nghi có đơn vị cấp lớn của địch trong vùng tam biên. Lý do LLĐB/HK thiết lập trại Ben Het vì căn cứ chỉ cách biên giới Việt-Miên-Lào mười ba cây số.
Cách tiền đồn biên phòng Ben Het mười hai cây số về hướng tây nam là ngọn đồi 875 (Hamburger Hill) mà trước đó, lữ đoàn 173 Nhẩy Dù Hoa Kỳ được sư đoàn 4 Bộ Binh (cũng của Hoa Kỳ) trợ lực, đánh một trận đẫm máu với quân đội Bắc Việt trong tháng Mười Một năm 1967. Trận đánh lớn này cũng làm tiêu hao phần nào sức tấn công của địch trên vùng cao nguyên trong kỳ Tết Mậu Thân 1968.
Diễn tiến trận đánh chiến xa:
Chập tối ngày 3 tháng Ba năm 1969, chiến xa và bộ binh Bắc Việt mở trận tấn công vào trại LLĐB Ben Het. Tiền đồn này được xây dựng trong vùng rừng núi, trên vùng cao nguyên miền nam Việt Nam nhằm theo dõi các sự chuyển quân của địch trên hệ thống đường mòn HCH trong vùng tam biên (Việt, Miên, Lào).
Lực lượng tấn công của địch thuộc Mặt Trận B3 (vùng cao nguyên), đã chuẩn bị trận đánh từ tuần lễ trước bằng cách pháo kích vào các nơi đóng quân của đơn vị bạn trong khu vực Dak To, Ben Het. Ngoài ra còn nhiều trận tấn công khác trên khắp miền nam Việt Nam trong mùa Xuân từ cuối tháng Hai năm 1969, đã ngầm yểm trợ một cách gián tiếp cho địch quân.
Khi trận đánh bắt đầu, quân đội Hoa Kỳ đưa thêm quân vào vùng tam biên đại đội (chi đội) B, tiểu đoàn (chi đoàn) 1, lữ đoàn (thiết đoàn) 69 Kỵ Binh. Đại đội Thiết Giáp này dưới quyền chỉ huy của Đại Úy John Stovall, đóng quân gần phi đạo ở Dak To và đặt dưới quyền điều động của lữ đoàn 2, sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ. Đơn vị chiến xa được lệnh tăng cường phòng thủ trại Lực Lượng Đặc Biệt Ben Het và nằm giữ an ninh đường 512, trục lộ quan trọng, duy nhất nối liền tiền đồn biên phòng đến Dak To.
Lực lượng bạn trong căn cứ biên phòng Ben Het có ba đại đội Dân Sự Chiến Đấu do một toán A LLĐB Hoa Kỳ làm cố vấn (A-244). Ngoài ra còn có thêm một pháo đội đại bác 175 ly, hai khẩu 40 ly “Duster”. Đại đội chiến xa, đưa một trung đội chiến xa lên phòng thủ ngọn đồi nơi hướng tây căn cứ Ben Het, phần còn lại rải ra nằm giữ những vị trí chiến lược, chiếc cầu trên đường 512 và làm thành phần trừ bị ở Dak To.
Kể từ lúc vào vùng hành quân ngày 25 tháng Hai, đơn vị Thiết Giáp bị địch pháo kích quấy rối thường xuyên, từ những khẩu đại bác che dấu trong khu vực và bên kia biên giới, trên đất Miên. Binh sĩ thiết giáp Hoa Kỳ ít khi đi xa khỏi chiến xa của họ vài thước. Họ bận rộn tránh mảnh đạn pháo kích và trả đũa những lần bị địch bắn sẻ bằng đại liên, và đại bác 90 ly trên pháo tháp chiến xa.
Cho đến ngày đầu tiên trong tháng Ba, trại LLĐB Ben Het bị pháo kích bằng đại bác hạng nặng 130 ly. Quân đội Bắc Việt dấu những khẩu đại bác này trong rặng núi trên đất Miên, từ bên kia biên giới bắn vào căn cứ. Có hôm căn cứ bị pháo kích nặng nề với nhịp bắn cứ mỗi 45 giây cho một quả. Tuy nhiên nhờ những toán tiền đồn báo động mỗi khi địch pháo kích nên căn cứ đỡ bị tổn thất. Để trả đũa, khóa họng những khẩu đại bác của địch, chiến xa được điều động ra vị trí phản pháo. Các chiến xa xử dụng đạn xuyên phá với hy vọng xuyên qua được lớp đá núi bao bọc khẩu đại bác. Ngoài ra, các chiến xa còn được đài tác xạ pháo binh và phi cơ quan sát điều chỉnh tác xạ mỗi khi bắn. Sự cố gắng của các chiến xa không được hiệu quả mấy vì tầm đạn đại bác 90 ly của chiến xa không qua khỏi lớp phòng thủ của đơn vị bộ binh Bắc Việt.
Đến khoảng đầu tháng Ba, sắp đến kỳ hạn tái tiếp tế cho trại LLĐB Ben Het, mức độ pháo kích của địch giảm xuống rõ rệt. Tuy nhiên, đại đội B chiến xa đã có 10 binh sĩ bị thương do mảnh đạn pháo kích, đa số bị nhẹ. Tổng kết, chỉ có một binh sĩ cần được di tản về bệnh viện.
Trong thời gian đó, trung đội 1, đại đội chiến xa đang trấn đóng trên một ngọn đồi nơi hướng tây (West Hill). Ba trong số bốn chiến xa thuộc trung đội, bố trí trên một mỏm núi gần đỉnh đồi, nhìn xuống thung lũng phiá dưới, thấy rất rõ con đường 512 uốn quanh co, dọc theo biên giới Miên. Đại Úy Stovall, đem ban chỉ huy lên trên đồi lập hầm chỉ huy vì người sĩ quan trung đội trưởng của trung đội chiến xa đã bị thương, trúng nhiều mảnh đạn pháo kích và được đưa về bệnh xá ở Dak To.
Hai ngày kế tiếp, mùng 1 và 2 trong tháng Ba trôi qua rất lặng lẽ. Không thấy địch pháo kích, chỉ nghe tiếng nổ đạn xúng cối, đại bác không dật 57 ly do đoàn xe tiếp tế bắn quấy rối, ngăn ngừa địch phục kích.
Vào khoảng 10 giờ đêm ngày 2, Trung Sĩ thường vụ trung đội Hugh Havermale báo cáo lên Đại úy Stovall rằng, binh sĩ trong trung đội chiến xa nghe tiếng động cơ xe cộ của địch di chuyển nơi hướng tây căn cứ. Hai người đi ra phòng tuyến, dùng ống kính hồng ngoại tuyến quan sát, nhưng không thấy gì. Họ cũng không xác định được tiếng động cơ xe cộ của địch phát ra từ đâu. Hai người chỉ nghe tiếng xe của địch khoảng hai mươi phút rồi tắt... Có vẻ như địch quân đang thử máy xe, coi lại xa đội, đội hình chiến xa.
Qua ngày thứ ba, địch quân vẫn im lặng, chỉ có một viên đạn bắn quấy rối vào một vị trí quân bạn. Trong ngày, ba toán trinh sát Dân Sự Chiến Đấu, phát xuất từ trong căn cứ ra thám sát những khu vực nơi hướng bắc, đông bắc và đông nam. Trong buổi thuyết trình hàng ngày vào mỗi buổi sáng, tin tức tình báo được vị chỉ huy trại LLĐB Ben Het cho biết, rất có thể quân đội Bắc Việt sẽ tấn công và địch có khả năng xử dụng chiến xa để tấn công. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau, những tin tức tình báo kể trên trở thành sự thực.
Đúng 9 giờ tối hôm đó, từ hai vị trí đặt súng cối, quân Bắc Việt pháo kích vào ngọn đội nằm chính giữa căn cứ. Từ 9 giờ rưỡi đến 10 giờ đêm, địch gia tăng mức độ pháo kích vào khắp nơi trong căn cứ. Những chiến sĩ Thiết Giáp, trung đội 1, đại đội B nằm bên ngoài, trên ngọn đồi nơi hướng tây lại nghe tiếng động cơ xe của địch. Lần này họ nghe rất rõ, phân biệt được tiếng động cơ chiến xa. Cũng như đêm trước, họ vẫn không nhìn thấy chiến xa của địch qua ống hồng ngoại tuyến, cho đến khi chiến xa địch cán lên một quả mìn chống người cách hàng rào phòng thủ chừng 800 thước. Quả mìn làm cháy một phần chiếc xe tăng, tỏa ánh sáng phơi bầy ra bên ngoài lớp hàng rào phòng thủ ba chiến xa và một thiết vận xa chở quân của quân đội Bắc Việt.
Ngay tức khắc, các chiến xa M-48 Hoa Kỳ khai hỏa đại bác 90 ly với đầu đạn chứa chất nổ mạnh (HEAT). Các binh sĩ LLĐB bên trong căn cứ báo động, vào vị trí chiến đấu, xử dụng súng cối bắn vào vị trí chiến xa địch xuất hiện và thủ sẵn khẩu đại bác không dật 57 ly. Bên trong căn cứ, khung cảnh rất bận rộn, người lo tải đạn, lính quân y chạy tới chạy lui lo vấn đề tản thương.
Ít phút sau, Đại Úy Stovall được báo cáo, thêm một chiến xa thứ tư của địch xuất hiện phiá bên trái quân bạn (LLĐB) gần phi đạo của căn cứ Ben Het. Ông ta nhận thêm một báo cáo khác do toán thám sát nằm bên ngoài gửi về, cho biết một đoàn xe (vừa chiến xa, thiết vận xa, Molotova chở quân) khoảng 15 chiếc từ hướng đông (biên giới Việt Miên Lào) về hướng trại LLĐB Ben Het. Đại Úy Stovall yêu cầu LLĐB bắn hỏa châu soi sáng để quan sát bãi chiến trường. Trong khi đó mấy chiến xa M-48 tiếp tục ‘bắn giết” với xe tăng T-54 Bắc Việt. Họ bắn trúng hai chiếc T-54 và chiếc thiết vận xa làm ba chiếc này bốc cháy.
Chiến xa PT-76 bị bắn hạ
Đại Úy Stovall leo lên một chiếc M-48, để chuẩn bị cho trận đánh chiến xa kế tiếp. Khi ông ta leo lên đằng sau pháo tháp, một tiếng nổ lớn, sức ép quăng ông ta cùng với người trưởng xa văng ra đằng sau cả chục thước. Chiến xa T-54 Bắc Việt bắn trúng chiếc M-48 làm bị thương nặng Đại Úy Stovall, người trưởng xa, gây tử thương cho người lính lái xe và người xạ thủ khẩu đại liên gắn trên chiến xa. Các chiến xa M-48 khác tự động di chuyển vào vị trí chiến đấu.
Bị thiệt hại mấy chiến xa, quân Bắc Việt không dám xung phong tấn công, chỉ pháo kích, bắn súng nhỏ vào trong căn cứ. Cuối cùng địch quân rút lui, đợt tấn công cuối cùng không xẩy ra khi các chiến xa thuộc trung đội 2 đến tăng viện. Trung đội trưởng là Trung Úy Ed Nikels tạm thời nắm quyền chỉ huy vì Đại Úy Stovall đã bị thương. Lực lượng phòng thủ được một “Hỏa Long” AC-47 lên bao vùng bắn yểm trợ, truy kích đoàn quân Bắc Việt đang trên đường rút lui ra khỏi trận điạ.
Sáng hôm sau, quân Dân Sự Chiến Đấu ra ngoài quan sát bãi chiến trường, họ báo cáo về cho biết quân Bắc Việt để lại hai chiến xa lội nước PT-76 và một Molotova đã bị cháy thành những đống sắt vụn. Tiếp tục lục xoát về hướng biên giới, họ tìm được điạ điểm tập trung cho các xe cộ của địch (chiến xa, xe vận tải), nhưng không có thêm chi tiết về đơn vị tấn công trại LLĐB Ben Het. Về phiá bạn, đại đội Bravo chiến xa có hai binh sĩ tử trận, hai người khác bị thương, trong đó có Đại Úy đại đội trưởng Stovall. Đặc biệt, chiến xa M-48 với lớp thép dầy, mặc dầu bị trúng đạn đại bác chiến xa địch vẫn không hề hấn gì, chỉ có khẩu đại liên gắn trên xe bị hư hại.
Phân tích trận đánh trại LLĐB Ben Het cho thấy địch chỉ muốn “thử sức” khả năng chiến xa hạng nhẹ, lội nước được PT-76 của họ. Quân đội Bắc Việt không thực sự đánh dứt điểm vì không có đơn vị ngăn chặn quân tiếp viện đồng minh. Cũng có thể đây là một trận đánh “nghi binh” cho một mặt trận khác rộng lớn hơn, và cũng có thể địch không ngờ có đơn vị chiến xa M-48 của Hoa Kỳ trong khu vực Tam Biên.
Dầu vậy, trận đánh giữa hai đơn vị chiến xa đêm 3 tháng Ba năm 1969, đã có chỗ trong quân sử “Chiến Tranh Việt Nam”. Đại đội Bravo chiến xa Hoa Kỳ trước đó đã được ân thưởng huy chương danh dự của Tổng Thống Hoa Kỳ, một lần nữa đã ghi thêm một chiến công vào bảng phong thần của đơn vị.
Dallas, TX.
vđh
TRẠI LLĐB A SHAU
TỔNG QUÁT
Trại LLĐB A Shau được xây dựng nhằm mục đích theo dõi đường biên giới, phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch trong khu vực trách nhiệm. A Shau nằm về hướng tây nam thành phố Huế, chỉ cách biên giới Lào khoảng 5 cây số về phiá đông, tọa độ YC494834. Vị trí chiến lược của căn cứ A Shau gần ba con đường xâm nhập chính từ bên Lào qua Việt Nam, vào khu vực thung lũng A Shau, A Lưới (Aloui), nên bị địch khuấy phá thường xuyên bằng những đơn vị cấp nhỏ cho đến khi bị tấn công, bắt đầu từ ngày 9 tháng Ba năm 1966.
Sắc dân thiểu số sống trong khu vực A Shau trước khi trận tấn công xẩy ra là người Katu, họ sống rất bí mật và thù nghịch với những người lạ (LLĐB Hoa Kỳ, Việt Nam). Và họ được địch quân móc nối hay có cảm tình với địch. Những quân nhân LLĐB Việt, Mỹ đến A Shau, xây dựng trại LLĐB chưa hề “làm bạn” được với người Katu.
Tin tức thời tiết cho biết, trong những ngày 9, 10, 11, 12 tháng Ba, thời tiết rất xấu, có nhiều mây che phủ bầu trời, sương vào buổi sáng sớm và bầu trời xuống thấp dưới 2000 bộ. Quân đội Bắc Việt lợi dụng thời tiết xấu, tránh được hỏa lực yểm trợ của phi cơ, tấn công trại LLĐB A Shau. Ngoài ra phiá Đồng Minh còn gặp trở ngại trong việc xử dụng trực thăng, đổ quân tiếp viện, cũng như tái tiếp tế cho căn cứ.
Trong khu vực thung lũng, cỏ tranh cao hơn đầu người (cỏ voi, elephant grass), cao từ 8 đến 12 bộ, che phủ khắp thềm thung lũng, và xung quanh trại LLĐB A Shau. Do đó vấn đề quan sát từ phi cơ quan sát cũng như từ trong căn cứ, để khám phá địch quân rất khó khăn, ngay cả những đơn vị cấp lớn của địch di chuyển trong thung lũng. Lẽ dĩ nhiên ngoại trừ khi địch quân di chuyển trên những con đường mòn. Nơi hướng đông phi đạo (trại LLĐB nào cũng có một phi đạo ngắn để phi cơ C-123, 130 đáp xuống đem theo đồ tiếp tế cho căn cứ) và khu vực phiá nam căn cứ có những bãi mìn cũ, không ai dám đi lại nên cỏ tranh mọc dầy đặc mà không ai dám ra cắt cỏ phát quang.
TÌNH HÌNH QUÂN BẠN
Tình hình quân bạn trước khi trận tấn công được báo cáo như sau: những toán tuần tiễu trong ngày 18, 19, 24, 25 tháng Hai tịch thâu được nhiều tài liệu của địch cho biết trại LLĐB A Shau đang bị địch quân dò thám, điều nghiên để tấn công. Ngày 5 tháng Ba, một đơn vị gồm 30 dân sự chiến đấu, do hai quân Mũ Xanh LLĐB Hoa Kỳ chỉ huy, lục soát cách căn cứ khoảng hai cây số về hướng nam, nhưng không gặp địch. Ngày 6 tháng Ba, một đại đội DSCĐ ra ngoài lục soát khu vực nơi hướng đông nam căn cứ, với nhiệm vụ tấn công những vị trí đóng quân của địch. Mục tiêu này do phi cơ thám thính tìm ra, trong chuyến bay bao vùng trại LLĐB ngày hôm qua. Chuyến hành quân lục soát này dự trù sẽ kéo dài hai ngày.
Trong khi đó, hai binh sĩ Bắc Việt đào ngũ đến trại LLĐB A Shau trình diện. Họ cho biết bốn tiểu đoàn chính quy Bắc Việt sẽ tấn công căn cứ ngày 11 và 12 tháng Ba và các đơn vị Bắc Việt đã chuyển quân vào trong thung lũng. Dựa vào nguồn tin này, đại đội DSCĐ đang lục soát bên ngoài được gọi về phòng thủ căn cứ. Toán quân về đến căn cứ an toàn, không chạm địch.
Ngày 6 tháng Ba, một toán tuần tiễu được lệnh thám sát khu vực cách căn cứ khoảng 2 cây số về hướng tây bắc, tìm vị trí đặt súng cối của địch. Toán này tìm không thấy vị trí súng cối của địch nên quay trở về căn cứ. Bộ tư lệnh Quân Đoàn I khước từ nhiều lần điện văn xin tăng cường cho trại LLĐB A Shau, bộ chỉ huy C1 LLĐB ở Đà Nẵng yêu cầu bộ chỉ huy liên đoàn 5 LLĐB/HK ở Nha Trang gửi quân tiếp viện. Ngày 7 tháng Ba lúc 4:40 chiều, một đại đội xung kích tiếp ứng Mike Force với 141 dân sự chiến đấu, 7 LLĐB/HK và 7 người thông dịch viên đến tăng cường khả năng phòng thủ, tuần tiễu trại LLĐB A Shau.
Có thêm viện binh, quân trú phòng đưa các toán tuần tiễu ra ngoài, lục soát cách căn cứ khoảng 1, 2 cây số về các hướng: bắc, tây bắc và nam, tìm các khu vực đóng quân của địch. Những cuộc tuần tiễu trở về báo cáo không thấy các hoạt động của địch. Những toán phục kích đêm, trở về cũng không gặp những dấu vết của địch quân. Trong khoảng từ ngày 4 đến 8 tháng Ba, phi cơ quan sát bao vùng báo cáo, tìm thấy nhiều vị trí đặt súng, hầm hố mới đào và cả vị trí cho súng phòng không của địch.
Những điều phi cơ quan sát cho biết, ăn khớp với lời khai của hai binh sĩ Bắc Việt đào ngũ, địch quân đang chuyển quân vào thung lũng A Shau và sẽ tấn công trại LLĐB. Không quân chiến thuật, các phản lực cơ Hoa Kỳ được điều động lên đánh phá những mục tiêu do phi cơ quan sát tìm thấy. Tuy nhiên kết quả không được kiểm chứng vì nhiều mây và sương mù trong thung lũng. Ngày 7 tháng Ba, phi cơ thả truyền đơn, cùng với loa phóng thanh, khuyến cáo binh sĩ Bắc Việt đào ngũ. Đến tối ngày 8 tháng Ba, trong trại LLĐB A Shau có: 220 DSCĐ, 141 Mike Force, 9 thông dịch viên, 41 thường dân, 6 LLĐB/VN, 17 LLĐB/HK.
DIỄN TIẾN TRẬN TẤN CÔNG
Trong đêm ngày 8 tháng Ba, trước khi trận tấn công bắt đầu, vị chỉ huy trại LLĐB A Shau ra lệnh báo động trong căn cứ vì biết chắc quân đội Bắc Việt sẽ tấn công. Tất cả mọi người phải ở tại vị trí chiến đấu. Khoảng 7:30 tối, một tiểu đội địch quân bị phát giác nơi đầu hướng bắc căn cứ và bên trong căn cứ xử dụng súng cối tác xạ. Lúc 11 giờ đêm, căn cứ báo động vì nghe nhiều tiếng động, đào hầm hố nơi hướng nam. Lúc 1:30 sáng, căn cứ cho nổ qủa mìn Claymore về hướng có âm thanh địch quân cắt hàng rào, kẽm gai.
Đến 3:50 phút sáng ngày 9 tháng Ba, địch quân pháo kích nặng nề vào trại LLĐB A Shau bằng súng cối 82 ly. Trận pháo kích kéo dài đến 6:30 phút sáng. Khoảng 4:30 sáng, hai đại đội lính Bắc Việt mở đợt tấn công đầu tiên vào hướng nam căn cứ. Quân trú phòng phản ứng dữ dội làm địch quân phải rút lui. Tuy nhiên trận pháo kích của địch rơi vào căn cứ rất chính xác, trúng phòng ngủ LLĐB/HK, phòng chứa đồ tiếp liệu, bồn nước, hư hại hầm truyền tin làm sự liên lạc với bên ngoài tạm ngưng để sửa chữa. Sau đó phải xử dụng hệ thông truyền tin của LLĐB/VN từ lúc 8:00 sáng và Hoa Kỳ lúc 9:20 phút sáng. Tổn thất nhân sự sau ba tiếng đồng hồ pháo kích: 2 LLĐB/HK tử trận, 5 LLĐB/HK bị thương, 25 DSCĐ bị thương, 7 Mike Force tử trận, 14 Mike Force bị thương, 1 thường dân chết, 1 thường dân bị thương. Sau đó địch quân tiếp tục pháo kích lai rai và xử dụng súng bắn tỉa cả ngày.
Đến 11:00 giờ sáng ngày 9 tháng Ba, các phản lực cơ Hoa Kỳ được gọi lên oanh kích nơi hướng bắc và nam căn cứ. Nhưng trời có nhiều mây, máy bay thám thính FAC không thể quan sát để điều động trận đánh bom nên không có hiệu quả, và đến 3:06 phút mọi phi vụ oanh kích phải ngưng vì mấy đã che phủ bầu trời dầy đặc. Khoảng 10:15 phút trại LLĐB A Shau yêu cầu tiếp tế thêm đạn dược và di tản thương binh. Yêu cầu được hai chiếc máy bay quan sát L-19 bay vào và chỉ di tản những người bị thương nặng. Tuy vậy chỉ di tản được một quân nhân LLĐB/HK, thượng sĩ Robert I. Gibson, vì bị súng của địch bắn lên.
Khoảng một giờ chiều, một phi cơ vận tải C-47 bay đến căn cứ. Chiếc máy bay, bay theo hướng tây bắc xuống đông nam và bị trúng đạn phòng không khi hạ thấp cao độ xuống thung lũng. Viên phi công định bay vòng qua phiá đông, nhưng vẫn bị trúng đạn từ những sườn núi xung quanh thung lũng, rơi xuống đất cách trại LLĐB khoảng năm dặm về hướng bắc. Trực thăng vào cứu được ba nhân viên phi hành đoàn, ba người khác tử trận.
Đến 2:15 phút chiều, một phi cơ thả dù tiếp tế đạn dược, dụng cụ cứu thương rơi ra ngoài hàng rào, nhưng một đơn vị trong căn cứ ra ngoài đem về được. Đến 4:30 phút, một phi cơ C-123 khác thả thêm mấy kiện hàng tiếp tế, đạn dược, quân trú phòng chỉ thâu hồi được khoảng 50% vì địch từ trên sườn núi bắn xuống dữ dội. Đến 5 giờ chiều, phi cơ thả thêm một đợt tiếp tế cho căn cứ, cũng chỉ thâu hồi được một nửa, và một trực thăng UH-1 bay vào căn cứ di tản thương binh. Chiếc này bị trúng đạn không cất cánh lên được, người Hoa Kỳ phải gửi lên căn cứ một trực thăng CH-53 di tản được 26 người bị thương, trước khi trời tối.
Khi màn đêm xuống, tất cả mọi người trong căn cứ phải ra phòng tuyến, đề phòng địch tấn công trở lại, những binh sĩ khác lo sửa chữa, dọn dẹp căn cứ vì trận pháo kích và một phi cơ bay bao vùng, thả hỏa châu chiếu sáng cả đêm.
Đúng 4:00 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, trại LLĐB A Shau lại nhận thêm một đợt pháo kích mới, rất chính xác, bằng súng cối 82 ly và đại bác không dật 57 ly bắn thẳng từ sườn núi vào trong căn cứ. Đợt pháo kích này phá hủy gần hết những căn nhà tiền chế trong căn cứ. Tất cả mọi nơi đều trúng đạn pháo kích của địch. Trận pháo kích tiếp tục suốt cả ngày, cho đến khi căn cứ chịu đựng hết nổi, phải di tản lúc 5:30 chiều. Mấy khẩu đại bác không dật của địch bắn hư hại hơn một nửa số súng cộng đồng trong căn cứ.
Vào lúc 5:00 giờ sáng, quân đội Bắc Việt mở trận tấn công lớn, từ hướng đông, bên kia phi đạo và hướng nam. Hai tuyến phòng thủ này yếu nhất vì có nhiều cỏ tranh rất cao. Tuyến phòng thủ hướng đông nam do đại đội DSCĐ không còn khả năng chiến đấu nữa, lui vào bên trong. Trong khi đó đại đội xung kích Mike Force với hai cố vấn LLĐB/HK vẫn còn chống đỡ phòng tuyến phiá nam, phải kéo qua trám lại phòng tuyến. Đại đội xung kích Mike Force phải chiến đấu tận lực, nhiều pha đánh cận chiến, cầm cự thêm ba tiếng đồng hồ. Đến 8:00 giờ sáng, phòng tuyến phiá nam xụp đổ, DSCĐ, Mike Force rút vào thủ xung quanh hầm chỉ huy (trung tâm hành quân) nơi phòng tuyến phiá bắc. Đến 8:30 phút sáng, phòng tuyến phia đông cũng bị chọc thủng, các DSCĐ sống sót rút vào bên trong, bố trí xung quanh hầm chỉ huy.
Từ 6:00 sáng, các phản lực cơ Hoa Kỳ đã lên đánh bom xuống hai hướng bắc và nam căn cứ nhưng phi cơ quan sát không kiểm chứng được kết qủa vì lớp mây và làn sương sớm quá dầy. Đến 8:30 phút sáng, lực lượng trú phòng chỉ còn giữ được một phần nơi phòng tuyến phiá bắc bao gồm hầm chỉ huy. Địch tấn công vào khu vực xung quanh hầm chỉ huy, nhưng các binh sĩ chống trả quyết liệt, đẩy lui. Hai khẩu súng cối 81 và 60 ly vẫn còn tác xạ, nhưng bị đại bác 57 ly của địch bắn trúng hư hỏng lúc 12:00 giờ trưa.
Đến 9:00 giờ sáng, không quân Hoa Kỳ lên oanh kích dữ dội gây tổn thất nặng cho quân Bắc Việt đã vào chiếm giao thông hòa nơi phòng tuyến phiá nam. Các quân nhân Mike Force, sống sót dưới quyền đại úy LLĐB/HK Blair, cố gắng phản công lấy lại phòng tuyến phiá nam nhưng không thành công, phải lui về phòng thủ xung quanh hầm chỉ huy.
Đến 10:00 giờ sáng, chỉ huy toán A-102 LLĐB/HK (trại LLĐB A Shau), yêu cầu dội bom lên tất cả căn cứ ngoại trừ phòng tuyến phiá bắc và hầm chỉ huy. Nhờ quyết định táo bạo này, các phản lực cơ Hoa Kỳ lên đánh bom từ 10:00 đến 12:00 trưa, làm khựng lại tất cả các đợt tấn công của địch vào hầm chỉ huy.
Lúc 12:15 phút, một phi cơ vận tải CV-2 thả xuống tiếp tế nước uống và đạn dược, nhưng tất cả rơi vào tay địch quân. Cùng khoảng thời gian đó, một khu trục cơ A-1 Skyraider bị hỏa lực phòng không bắn trúng, đáp khẩn cấp ngay trên phi đạo và may mắn được một chiếc A-1 khác đáp xuống cứu, bay thoát.
Từ 12:15 đến 2:00 giờ chiều quân Bắc Việt vẫn không tiến lên được, mặc dầu hầm chỉ huy đã trúng nhiều đạn đại liên, nhưng được xây rất kiên cố. Tuy nhiên quân Bắc Việt vẫn tiếp tục dùng súng cối 82 ly bắn vào căn cứ.
Từ 2:30 đến 4:30, lực lượng phòng thủ kiệt sức, tình trạng nguy ngập. Tất cả vũ khí cộng đồng đều đã hết đạn hoặc bị hư hại. Các quân nhân DSCĐ, Mike Force đã phải chiến đấu liên tục hơn 36 tiếng đồng hồ, hết nước uống và đồ ăn. Quân Bắc Việt đã tràn vào chiếm những hầm hố, giao thông hào tại những phòng tuyến đã chiếm được.
Từ lúc 3:00 giờ chiều, trong bộ tư lệnh Đệ Tam Thủy Bộ (chỉ huy 2 sư đoàn TQLC 1 và 3 Hoa Kỳ), đã có quyết định, xử dụng trực thăng của TQLC/HK di tản những quân nhân sống sót trại LLĐB A Shau. Cấp chỉ huy LLĐB/HK trong căn cứ đã được lệnh phá hủy những ổ súng cộng đồng (thực ra đã bị trúng đạn hư hại) để chuẩn bị di tản vào lúc 5:00 giờ chiều.
Đúng 5:00 giờ chiều, trong hầm chỉ huy căn cứ, các quân nhân LLĐB phá hủy máy móc truyền tin, được DSCĐ nơi tuyến phòng thủ phiá bắc bắn yểm trợ cho họ rút lên hướng bắc cùng với những quân nhân sống sót.
Đúng 5:20, tất cả các quân nhân sống sót được lệnh rút lui đến một bãi đáp trực thăng, cách căn cứ khoảng 300 thước. Tất cả những người còn đứng vững phải ở lại nằm cản cho cuộc rút lui, và sẽ đi sau. Địch quân đã biết được chuyện di tản pháo kích lên bãi đáp, gây thêm tổn thất. Hợp đoàn trực thăng cấp cứu gồm có 15 chiếc trực thăng H-34, được bốn trực thăng UH-1 võ trang hộ tống vào đón những quân nhân sống sót. Và lẽ dĩ nhiên các phản lực vẫn bay bao vùng ở trên cao.
Tuy nhiên vì mây che phủ, nhiều trực thăng không vào được. Khi chiếc trực thăng đáp xuống, dân sự chiến đấu người Thượng đã quá sợ hãi tranh dành lên đầy một trực thăng làm một chiếc không cất cánh được, sau đó trúng mãnh đạn pháo kích hư hại, phải bỏ lại. Chuyến đầu chỉ đem về được 69 quân nhân, trong đó có bốn LLĐB/HK đã bị thương. Hai trực thăng chở quân H-34 bị phòng không bắn rơi. Đến 5:45 phút, trực thăng không thể vào đón chuyến nữa vì hỏa lực phòng không của địch, vị chỉ huy trưởng bộ chỉ huy C-1 LLĐB ngoài Đà Nẵng tuyên bố trại LLĐB A Shau đóng cửa.
Đến 6:00 giờ chiều, số quân nhân sống sót còn kẹt lại, gồm có: 7 quân nhân Mũ Xanh LLĐB/HK, trong đó có một người bị thương nặng, 40 quân xung kích Mike Force, 50 dân sự chiến đấu và phi hành đoàn hai trực thăng TQLC/HK. Người lính LLĐB/HK bị thương đã chết gần bãi đáp trực thăng. Toán quân này buộc phải di tản tự lực, tránh né địch quân, di chuyển lên hướng tây bắc, lên thiết lập vị trí phòng thủ trên một khu đất cao, cách trại LLĐB A Shau chừng hai cây số.
Đến 2:00 giờ sáng, không thấy địch quân đuổi theo, họ tiếp tục đi lên hướng bắc. Trong lúc di chuyển, một số quân nhân kiệt sức bị bỏ rơi, hoặc đi lạc vì trời tối. Qua ngày 11 tháng Ba, trực thăng cứu được một LLĐB/HK, phi hành đoàn trực thăng TQLC/HK và một số quân Mike Force, DSCĐ. Một số khác vẫn tiếp tục đi về hướng bắc, được trực thăng tìm thấy, cứu đưa về Huế ngày 11 tháng Ba. Trong các ngày kế tiếp, 12, 13, 14, phi cơ quan sát Hoa Kỳ bao vùng, cố tìm thêm số quân thất lạc, nhưng... Qua ngày 16 tháng Ba, cuộc tìm kiếm coi như chấm dứt.
PERSONNEL RECAPITULATION
CIDG | MIKE FORCE | CIV | USASF | LLDB | INTERP | TOTAL | |
Originally in Camp | 210 | 143 | 51 | 17 | 6 | 7 | 434 |
Returned | 109 | 53 | 6 | 12 | 5 | 1 | 186 |
Returned Wounded | 52 | 33 | 2 | 12 | 1 | 1 | 101 |
MIA | 101 | 90 | 45 | 5 | 1 | 6 | 248 |
MIA Believed KIA | 40 | 75 | 45 | 5 | 1 | 6 | 172 |
WEAPONS LOST (ESTIMATED)
100 | Carbines |
10 | LMGs |
5 | BARs |
4 | Mortars - 60mm |
2 | Mortars - 81mm |
SOURCE | |
Extract from Inclosure 15 to Section II to Operational Report on Lessons Learned for Period Ending 30 April 1966, Headquarter, 5th Special Forces Group (Airborne), 1st Special Forces |
TRẠI LLĐB LANG VEI
Những giờ phút oai hùng nhất của trại Lực Lượng Đặc Biệt Lang Vei xẩy ra trong tháng Giêng năm 1968, trước khi trận tổng tấn công Têt Mậu Thân nổi tiếng xẩy ra. Đó là một tiền đồn biên phòng xa nhất về phiá bắc VNCH, và cũng là căn cứ lẻ loi nhất trong số sáu mươi bốn trại biên phòng do LLĐB Hoa Kỳ thiết lập, dọc theo đường biên giới nam Việt Nam với hai nước láng giềng Lào và Miên.
Trại LLĐB Lang Vei chỉ cách biên giới Lào về hướng tây không tới một dặm và cách căn cứ Khe Sanh do Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn đóng khoảng bẩy dặm. Trong tháng Giêng 1968, trong trại LLĐB Lang Vei có toán A-101 LLĐB/HK, do đại úy Frank Willoughby chỉ huy, ngoài ra còn có thêm các quân nhân LLĐB/HK: Trung sĩ nhất William T. Craig thường vụ, toán phó là trung úy Mike Wilkins, trung sĩ nhất y tá James Holt, trung sĩ Kenneth Hanna chuyên viên vũ khí, trung sĩ an ninh Peter Tiroch, trung sĩ truyền tin Emmanuel E. Phillips, trung sĩ Arthur Brooks vũ khí, trung sĩ y tá Nickloas Fragos, các binh sĩ truyền tin William G. McMurray, Franklin H Dooms và người mới gia nhập toán A-101 LLĐB là binh nhất Daniel R. Phillips, chuyên viên chất nổ.
Tuyến phòng thủ trại trông giống như khúc xương. Trục dài theo hướng đông tây. Chu vi trại có ba lớp hàng rào kẽm gai phòng thủ. Ngoài toán A LLĐB/HK, có thêm một toán A LLĐB/VN với khoảng ba trăm Dân Sự Chiến Đấu thuộc sắc tộc Bru đóng trong căn cứ.
Bộ chỉ huy cấp cao hơn, có nhiệm vụ trông nom trại LLĐB Lang Vei ở tận Đà Nẵng. Đại đội C LLĐB/HK (BCH/C1/LLĐB) dưới quyền trung tá Daniel Schungel.Trong năm 1967, ông ta đã gửi một lực lượng Xung Kích (Mobile Strike Force, Mike Force) ra tăng cường cho trại LLĐB Lang Vei, đặt dưới quyền xử dụng của đại úy Willoughby. Đơn vị xung kích cấp đại đội, có khoảng 160 DSCĐ người Hre do sáu quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ chỉ huy, tất cả dưới quyền trung úy Paul R. Longgrear. Lính LLĐB trong đại đội gồm có: Trung sĩ nhất Charles Lindewald, chuyên viên vũ khí nặng, trung sĩ nhất Harvey G. Brande y tá, trung sĩ nhất Earl Burke súng nặng, và trung sĩ John Early vũ khí nhẹ. Ngài ra trung úy Longgrear còn có thêm trung sĩ y tá James L. Moreland.
Đơn vị Xung Kích khác Dân Sự Chiến Đấu chỉ phục vụ trong những trại LLĐB gần xóm làng, và có cấp chỉ huy cùng là người trong làng. Được quân Mũ Xanh Hoa Kỳ chỉ huy trực tiếp, đơn vị Xung Kích thường được huấn luyện nhiều hơn, kể cả nhẩy dù. Họ là những đạo quân đánh thuê, có thể được đưa ra khắp các chiến trường tùy theo nhu cầu, và được trả thêm lương tùy theo số vũ khí tịch thâu được của địch.
Với bốn quân nhân Mũ Xanh làm trung đội trưởng, ngoại trừ anh chàng y tá Moreland, trung úy Longgrear huấn luyện quân xung kích Hre rất kỹ. Người Hre đã bị mang tiếng là lười biếng và bỏ chạy khi đụng trận.
Đại úy trại trưởng Willoughby cẩn thận phân chia nhiệm vụ cho hai sắc dân Bru và Hre ra rõ ràng. Quân xung kích người Hre được chỉ định ra nằm “tiền đồn” khoảng cách giữa trại LLĐB và biên giới Lào. Họ sẽ báo động trường hợp quân đội Bắc Việt tấn công từ bên Lào qua. Họ được lệnh phải tổ chức tuần tiễu, thám sát khu vực xung quanh chỗ đóng quân để tìm kiếm dấu vết các hoạt động của địch.
Quân Thượng Bru trong trại được Willoughby, Craig tổ chức phòng thủ căn cứ, mỗi đại đội DSCĐ sẽ trấn đóng một góc trại. Đại đội 102 góc tây bắc, 103 tây nam, 104 đông nam, và 101 hướng đông bắc, dọc theo đường số 9 gần Khe Sanh nhất. Nằm trong khu vực chính giửa khúc xương là đại đội giỏi nhất, các trung đội 1, 2, 3 Viễn Thám người Việt Nam.
Trại LLĐB Lang Vei có một khẩu súng cối 4,2 ly đặt ngay giữa trại, bẩy khẩu 81 ly, mười chín khẩu 60 ly đặt rải rác xung quanh căn cứ. Họ còn có thêm hai khẩu đại bác không dậy 106 ly. Trong lớp hàng rào phòng thủ xung quanh căn cứ không có mìn chống chiến xa vì cho tới lúc đó, chưa có tin tức gì về chiến xa của địch. Quân LLĐB trong trại vừa nhận được 100 ống phóng hỏa tiễn M-72 chống chiến xa.
Về vũ khí nhẹ, trong trại có hai khẩu đại liên M-60 (mới vào thời điểm 1968), hai khẩu đại liên 50, và 39 khẩu trung liên BAR từ thời đệ nhị thế chiến. Đa số dân sự chiến đấu được trang bị súng trường Carbin M-1 hoặc M-2.
Đại úy Willoughby cho đến ngày 14 tháng Giêng, được hứa hẹn sẽ có hai đại đội TQLC/HK sẵn sàng đến tiếp ứng bằng trực thăng hoặc bằng đường bộ, trường hợp cần thiết. Vị trại trưởng ưu tư cho rằng, chuyện tiếp cứu không phải đơn giản, đại đội TQLC đến bằng đường số 9 sẽ bị địch phục kích. Đến bằng trực thăng cũng khó khăn vì bãi đáp “nóng” với hỏa lực phòng không của địch, có thể gây nên thảm họa cho đơn vị tiếp ứng. Ngoài ra còn mấy đại đội Xung Kích Mike Force nằm chờ ở Đà Nẵng... Một quân nhân phải nghĩ đến lúc gặp trường hợp khó khăn.
Tình hình trở nên căng thẳng, khi đại úy Willoughby cùng với toán A-101 LLĐB của ông ta nhận được tin tình báo. Họ biết rằng làng Thượng ở Khe Sanh đã phải di tản ngày 21 tháng Giêng vừa qua. Như vậy rõ ràng, quân tiếp viện TQLC từ Khe Sanh sẽ phải đến bằng phương tiện trực thăng, vì làng Thượng Khe Sanh nằm giữa căn cứ Khe Sanh của TQLC/HK và trại LLĐB Lang Vei.
Một đơn vị xung kích Mike Force dưới quyền trung úy Longgrear đã tiến qua phần đất Lào trong lúc hăng say truy đuổi một đơn vị Bắc Việt. Đơn vị này báo cáo về cho biết tìm thấy dấu vết xích sắt của chiến xa địch. Dấu vết xe xích sắt này ngược lại với sự tin tưởng của các sĩ quan cao cấp TQLC/HK ngoài vùng I chiến thuật. Vấn đề quân đội Bắc Việt có đơn vị chiến xa trong khu vực lân cận căn cứ Khe Sanh đã trở thành sự thật.
Buổi sáng ngày 24 tháng Giêng năm 1968, trung úy Longgrear đang chỉ huy đại đội tuẩn tiễu bỗng xuất hiện những quân nhân tả tơi thuộc tiểu đoàn 33 “Con Voi” Hoàng Gia Lào cùng với vợ con đang chạy trên đường số 9 về hướng đoàn quân LLĐB. Họ cho biết, phải “bỏ của chạy lấy người” sau khi bị quân chính quy Bắc Việt tấn công hai ngày liên tục. Căn cứ của đơn vị Hoàng Gia Lào cách biên giới không đến mười dặm.
Trong trận tấn công đó, căn cứ Khe Sanh nhận được những lời cầu cứu tuyệt vọng từ Tchepone của quân đội Lào. Hai phản lực cơ Hoa Kỳ được lệnh đến yểm trợ nhưng thời tiết xấu bải đình lại. Vị đại tá Lào cho Willoughby biết quân đội Bắc Việt có chiến xa dẫn đầu, mở đường, cho bộ binh thuộc sư đoàn 304, 325 theo sau. Nhưng đại úy Willoughby không tin ông ta. Không thấy tổn thất trong đám quân Lào, vũ khí của họ bảo toàn không thấy được dấu vết của trận đánh. Vị đại tá Lào yêu cầu được gặp người nào “cùng cỡ” với ông ta, sau đó kéo quân, dân của ông ta ra căn cứ cũ của trại LLĐB Lang Vei tạm đóng quân.
Đại úy Willoughby báo ngay về bộ chỉ huy C1 LLĐB ở Đà Nẵng, yêu cầu tăng cường thêm một toán quân Mũ Xanh. Sáu quân nhân LLĐB/HK ra tăng cường ngày hôm sau, cùng với đạn dược, thực phẩm và thuốc men, dụng cụ y khoa. Người Hoa Kỳ còn đem ra vật liệu, sửa chữa lại căn cứ cũ của LLĐB cho đám quân Lào tạm trú.
Ông đại tá người Lào tự ái không trả lời thêm những câu hỏi của Willoughby, đặc biệt về đơn vị chiến xa Bắc Việt. Tình trạng bất hòa giữa hai cấp chỉ huy chấm dứt khi thiếu tá Hoadley, chỉ huy phó đại đội C Hoa Kỳ (C1 LLĐB/VN) bay đến căn cứ làm liên lạc viên với người Lào.
Ngày 30 tháng Giêng, binh nhì Lương Đình Du, quân đội Bắc Việt đi băng qua cổng trại mà binh sĩ Bru đang ngồi gác ngủ gục, đầu hàng làm ngạc nhiên Bill Craig. Du thuộc sư đoàn 304 cho biết trung đoàn của anh ta bị tổn thất khi đụng trận với TQLC/HK ngày 20 tháng Giêng nơi làng Khe Sanh. Mặc dầu không biết rõ về đơn vị chiến xa, nhưng Du cho biết trại LLĐB Lang Vei sắp bị tấn công trong những ngày sắp tới.
Theo lời của hàng binh Du, mới hai ngày qua, một tiểu đoàn phó cùng với toán đặc công đã vào đến sát trại LLĐB Lang Vei để điều nghiên cho trận tấn công sắp xẩy ra. Đúng ra quân đội Bắc Việt đã nhiều lần định tấn công từ lâu, nhưng đình hoãn lại, tuy nhiên trận tấn công chắc chắn sẽ xẩy ra dù sớm hay muộn. Người lính Bắc Việt sau đó được đưa đến căn cứ Khe Sanh để thẩm vấn... và TQLC/HK vẫn chưa tin rằng quân đội Bắc Việt sẽ xử dụng chiến xa để tấn công.
Cũng trong ngày 30 tháng Giêng, có thêm hai điều quan trọng xẩy ra trong trại LLĐB Lang Vei. Một toán tuần tiễu của trại, trong lúc di chuyển khu vực lân cận sông Sê Pôn khám phá một con đường ngầm dưới mặt nước. Con đường bí mật này không thể nhìn thấy trên máy bay quan sát, thám thính, phải đến tận nơi mới biết. Chuyện khác, trung sĩ nhất John Young, một quân nhân Mũ Xanh được gửi đến căn cứ Lang Vei cũ để hướng dẫn toán thám sát người Lào đi tuần chung quanh khu vực hôm 25 tháng Giêng bị địch bắt được.
Ngày 31 tháng Giêng, một toán tuần tiễu thuộc đại đội xung kích Mike Force, trên đường di chuyển về hướng làng Khe Sanh, đụng nhằm một đơn vị Bắc Việt và phải yêu cầu phản lực cơ lên yểm trợ. Khi được báo cáo, biết chắc địch sẽ tấn công, đại úy Willoughby quyết định, chỉ để lại một trung đội Xung Kích Mike Force nằm “tiền đồn”, phần còn lại rút về tăng cường phòng thủ trại LLĐB Lang Vei. Lúc đó qua đài phát thanh (radio), thông báo về trận tổng tấn công Tết Mậu Thân trên toàn lãnh thổ miền nam Việt Nam. Đại úy Willoughby chỉ huy căn cứ nhận thức rằng... một tai họa lớn sẽ đến với trại LLĐB.
Năm ngày đầu trong tháng Hai năm 1968 lặng lẽ trôi qua, căn cứ vẫn tổ chức những toán tuần tiễu xung quanh khu vực như thường lệ và chờ đợi... Đó là những ngày nhàm chán, quân đội Bắc Việt đang tính toán chuyện gì? chấm những hỏa tập tiên liệu cho súng cối, hay đợi đến hôm trực thăng tái tiếp tế cho căn cứ, rồi mới ra tay.
Vào ngày 6 tháng Hai, vị chỉ huy trưởng đại đội C LLĐB/HK, trung tá Schungel đến Lang Vei bằng trực thăng để thay cho thiếu tá Hoadley. Cũng trong ngày, thiếu úy Bailey, người có nhiệm vụ điều khiển khẩu đại bác không dật 106 ly thứ hai, được về Đà Nẵng vài hôm để lo chuyện cá nhân. Trong trại không đề cử ai tạm thay chỗ anh ta.
Buổi sáng hôm đó (6/2/1968), trại LLĐB Lang Vei bị pháo kích bằng súng cối. Trong căn cứ các quân nhân Mũ Xanh xử dụng súng cối 4,2 inches (loại lớn) phản pháo vào những nơi tình nghi quân đội Bắc Việt đặt súng pháo kích. Đến xế chiều, trại LLĐB nhận thêm một đợt pháo kích nữa. Địch đặt súng trên rặng núi Cô Rốc từ bên Lào bắn qua. Quân trú phòng chỉ bị tổn thất nhẹ, nhưng tinh thần rất căng thẳng.
Trời vừa xập tối, như thường lệ, trung úy Longrear ra lệnh cho một trung đội người Hre ra “tiền đồn” dưới quyền chỉ huy của hai quân nhân LLĐB/HK Lindewald và Hanna. Trung đội này chưa ra kỏi cổng trại đã nghe một loạt súng nổ vang, phải chạy ra chỗ ẩn nấp. Hai quân nhân LLĐB báo cáo lên ban chỉ huy, và đích thân trung tá Schungel ra quan sát tình hình. Hai người trung sĩ giải thích, mấy binh sĩ Hre trông thấy nhiều địch quân nên hốt hoảng.
Trung úy Longgrear một lần nữa cho hai người hạ sĩ quan cùng trung đội người Hre phải ra “tiền đồn”, nhưng đám lính Thượng không chịu tuân lệnh. Trung tá Schungel nổi giận, trung úy Longgrear phải thuyết phục, họ mới chịu đi.
Khoảng sáu giờ chiều, trại LLĐB Lang Vei như trải qua một cơn động đất với 50 quả đạn đại bác 152 ly, đặt từ trong rặng núi Cô Rốc bắn vào trại. Đại bác TQLC từ trong căn cứ Khe Sanh bắn trả đũa, LLĐB trong trại Lang Vei cũng phản pháo bằng khẩu súng cối lớn nhất trong căn cứ 4,2 inches. Những viên đạn pháo kích của địch rơi vào trong lớp hàng rào phòng thủ phiá nam, tuyến phòng thủ của đại đội 104 làm hai dân sự chiến đấu bị thương. Sau khi đợt pháo kích chấm dứt, trung tá Schungel cùng với cấp chỉ huy LLĐB Việt Nam, trung úy Quân và sĩ quan hành quân, thiếu úy Qúy đi xem xét lại vị trí phòng thủ căn cứ.
Đến khoảng 7:30 tối, từ tuyến phòng thủ đại đội 104 báo cáo cho đại úy Willoughby rằng họ nghe tiếng động cơ xe cộ của địch. Ít phút sau, từ “tiền đồn”, Hanna và Lindewald cũng báo cáo nghe được nhiều tiếng động gần nơi họ đóng quân. Trại LLĐB bắn lên ba hỏa châu soi sáng, nhưng ngoài “tiền đồn” vẫn không trông thấy gì. Vài binh sĩ Hre bắn vào khoảng không gian tối tăm, mờ ảo như để làm cho họ lên tinh thần. Nơi tuyến phòng thủ đại đội 104 cũng thế, yêu cầu bắn hỏa châu soi sáng.
Nên nóc hầm chỉ huy (trung tâm hành quân), có một đài quan sát, lúc đó Fragos đang làm nhiệm vụ, cũng cảm thấy căng thẳng tinh thần. Fragos cũng chẳng thấy gì khác thường cho đến lúc sau nửa đêm. Anh ta trông thấy hỏa châu bắn lên rất gần phòng tuyến phiá nam của đại đội 104 đường đi đến làng người Bru Lang Troai. Lần này Fragos trông thấy hai bóng đen đang cắt lớp hàng rào kẽm gai trước hai chiếc “xe” và nhận ra ngay chiến xa của địch.
Lập tức, người lính Mũ Xanh la lớn vào tay cầm máy truyền tin, báo cáo cho trại trưởng Willoughby “Mình có chiến xa (đến thăm) nơi hàng rào”. Ngay lúc đó, các binh sĩ đại đội 104 nổ súng bắn hạ hai địch quân đang cắt hàng rào. Một chiến xa Bắc Việt chiếu đèn rọi ánh sáng trắng rồi tiến tới, cán bừa lên lớp hàng rào kẽm gai.
Báo cáo trên máy truyền tin chưa đủ, Fragos leo xuống khỏi đài quan sát, vào hầm chỉ huy báo cáo cho cấp chỉ huy Willoughby và “cái Nỏ” (Crossbow), danh hiệu của trung tá Schungel. Trung tá “Crossbow” nói đại úy Willoughby ở lại hầm chỉ huy còn ông ta đi theo Fragos ra quan sát tình hình.
Đó là một khúc quanh quan trọng cho trại Lực Lượng Đặc Biệt. Một trận tấn công bằng chiến xa lần đầu tiên của quân đội Bắc Việt trong trận chiến tranh Đông Dương. Gay cấn hơn những lần đặc công bò vào căn cứ, mở đường cho bộ binh tấn công. Một chiến thuật mà địch quân thường dùng.
Ra khỏi hầm chỉ huy, trông thấy tận mắt rõ ràng chiến xa Bắc Việt, trung tá “Crossbow” ra lệnh cho đại úy Willoughby gọi phi cơ, pháo binh yểm trợ trên con đường đi Lang Troai ngay tức khắc. Ông ta ra lệnh thêm, xin máy bay thả hỏa châu soi sáng chiến trường và mở máy truyền tin trên hai tần số báo cho căn cứ TQLC Khe Sanh và BCH/C1 ở Đà Nẵng. Tiếp theo, ông ta ra khỏi hầm chỉ huy, lấy binh sĩ lập mấy toán “diệt chiến xa”.
Trong khi đó, chiếc chiến xa Fragos trông thấy đã ngừng lại, bắn giết với binh sĩ đại đội 104. Chiến xa Bắc Việt này là một trong số mười một chiếc tham dự trận tấn công trại LLĐB Lang Vei sáng sớm ngày 7 tháng Hai năm 1968. Loại do Trung Cộng chê tạo dựa theo mẫu chiến xa lội nước Piavaiuschiij, PT-76 của Nga Sô. Loại chiến xa này nặng khoảng 15 tấn, đại bác 76 ly có thể bắn với nhịp độ 15 viên một phút. Chiếc này dùng đại bác cùng với đại liên 7.62 ly bắn xối xả vào phòng tuyến đại đội 104.
Trung tá “Crossbow” ra lệnh cho Fragos lên đài quan sát đem ống phóng M-72 xuống. Ông ta là người đầu tiên dùng ống phóng M-72 bắn vào chiến xa địch, nhưng không ăn thua. Loại này được chế tạo nhẹ để lội nước, không chịu nổi vũ khí chống chiến xa, nhưng binh sĩ xe tăng Bắc Việt gắn thêm lớp sắt thép bảo vệ bên ngoài, nên không sao.
Trong hầm chỉ huy, đại úy Willoughby ra lệnh cho binh nhất hiệu thính viên Dooms báo cáo chiến xa địch tấn công trại LLĐB về Khe Sanh và BCH/LLĐB ở Đà Nẵng. Thủy Quân Lục Chiến trong căn cứ Khe Sanh nghi ngờ quân LLĐB đã rút lui ra khỏi căn cứ nên yêu cầu xác nhận. Dooms trả lời bằng cách gọi thẳng trung tâm phối hợp hỏa lực pháo binh trong căn cứ Khe Sanh. Người ngồi nghe trong căn cứ Khe Sanh là trung sĩ Tom Gagnon, anh ta cũng chưa tin yêu cầu xác nhận chiến xa địch đã vào tới hàng rào phòng thủ trại LLĐB. Dooms lên tiếng xác nhận.
Đại úy Willoughby bận rộn trả lời, điều động “tiền đồn” Mike Force do Lindewald và Hanna chỉ huy, đồng thời nhận báo cáo của đại đội 101 cho biết, thêm hai chiến xa địch đang di chuyển trên đường số 9 từ hướng đông vào tuyến phòng thủ của đại đội. Thêm báo cáo khác gửi về, bốn chiến xa khác từ bên Lào (hướng tây) cũng đang tiến về hướng đông trên đướng số 9.
Người hiệu thính viên Dooms tức giận nhưng vẫn cố thuyết phục TQLC trong căn cứ Khe Sanh tin vào những điều báo cáo là đúng sự thật. Khi anh ta nói, mình nghe được tiếng động cơ chiến xa, họ cho rằng tiếng nổ của máy phát điện. Đại úy Willoughby vừa trấn an các đơn vị vẫn cố gắng liên lạc với phi cơ quan sát đang bao vùng (FAC) để xin yểm trợ.
Cuối cùng TQLC trong căn cứ Khe Sanh mới đồng ý cho pháo binh của họ bắn yểm trợ cho trại LLĐB Lang Vei, sau khi mười bẩy phút quý báu đã trôi qua. Thực ra căn cứ Khe Sanh lúc đó cũng đang bận phản pháo vào mấy vị trí tình nghi đặt đại bác của địch trong rặng núi Cô Rốc. Quả đạn đầu tiên từ căn cứ Khe Sanh rơi vào đúng giữa trại LLĐB nhưng may mắn không ai bị thương, và họ đã điều chỉnh tác xạ, những quả sau rơi chính xác vào vị trí địch quân.
Khi trận tấn công bắt đầu, trung sĩ Craig đang trằn trọc, giật mình vội đánh thức binh nhất Dan Phillips dậy, rồi cả hai chạy nhanh ra vị trí khẩu súng cối 81 ly, tác xạ vào vị trí bốn chiến xa địch đang di chuyển trên đướng số 9 về hướng đông, theo sau là lính bộ binh Bắc Việt.
Đang hăng say, một quả đạn súng cối của địch rơi gần vị trí khẩu cối 81 ly của hai người lính Mũ Xanh. Cả hai bị sức ép ngã xuống, ù tai, Craig bị ra máu lỗ tai, Phillips bị một miểng bay sớt qua, chảy máu gần mắt. Trung sĩ Brooks đang thủ khẩu đại liên gần đó chạy lại, nhưng cả hai người đều nói Brooks trở về chỗ khẩu đại liên vì họ vẫn còn chiến đấu được. Tiếp theo kho nhiên liệu trúng đạn bốc cháy, ngọn lửa chẩy ra đến gần ụ súng cối 81 ly, Craig nói Phillips bỏ chạy lại ụ súng cối 4,2 inches. Tại đây đã có mặt Tiroch, Dooms, Thompson và Burke.
Sau khi trung tá “Crossbow” bắn phát M-72 đầu tiên, các quân nhân LLĐB Việt Mỹ chạy lại tiếp tay với ông ta, kết hợp thành một toán “diệt chiến xa” gồm có: trung úy Longgrear, trung úy Quý, MacMurray và Wilkins.
Trước đó trung úy Longgrear, Early đang ngồi nghỉ trong một ụ súng cối 81 ly khác, cách hầm chỉ huy khoàng 200 thước, nơi vị trí tuyến phòng thủ đại đội 104. Nhờ hỏa châu, đại đội này quan sát thấy rõ bãi chiến trường, báo cáo về BCH trại cho biết, thêm ba chiến xa của địch cùng với lính bộ binh Bắc Việt đang di chuyển trên con đường đất dẫn đến làng Thượng Lang Troai. Họ vội vàng bắn thêm đạn chiếu sáng cho đại đội 104.
Trung úy Longgrear cùng với một người lính Mũ Xanh xách ống phóng M-72 chạy ra khỏi ụ súng cối. Mặc dầu nhiều sương mù, anh ta nhận ra được mầu cam đỏ chiến xa Bắc Việt cùng với đạn lửa xanh bắn ra từ khẩu đại liên trên chiến xa. Chiếc PT-76 đã qua được lớp hàng rào phòng thủ thứ nhất, đang băng qua lớp phòng thủ bên trong, hướng thẳng vào ụ súng cối 81 ly. Longgrear dương ống phóng M-72, nhắm vào chiến xa, bóp cò nhưng không nổ, Early đưa cho chàng ống phóng hỏa tiễn khác, quả hỏa tiễn 66 ly trúng vào mũi chiến xa rồi đi ngược lên không đi xuyên qua lớp thép ở trước mũi chiến xa.
Ba người bỏ chạy, trong khi chiếc chiến xa Bắc Việt vẫn xông tới ụ súng cối 81 ly. Early chạy về hướng hầm chỉ huy ở chính giữa trại. Longgrear ra lệnh cho Thompson ra tiếp tay với Brande, chỉ huy đại đội 104 mà anh ta nghĩ rằng đã bị thương. Còn lại một mình, Longgrear chạy lại, nhập vào nhóm “diệt chiến xa” của trung tá “Crossbow”.
Vẫn chưa đến một giờ sáng, hai quân nhân Mũ Xanh Holt và Burke đang thủ khẩu đại bác không dật 106 ly duy nhất trong trại LLĐB. Họ xử dụng khẩu đại bác rất hiệu qủa, chống lại đoàn chiến xa của địch trên đường mòn đi đến làng Lang Troai. Trong khi đó tuyến phòng thủ của đại đội 104 đã bị chọc thủng, tình trạng đại đội này đang nguy ngập. Chiến xa cùng với bộ binh Bắc Việt đang tràn ngập vị trí của đại đội 104 dân sự chiến đấu.
Holt đã bắn gục hai chiến xa Bắc Việt ngay trong lớp hàng rào phòng thủ bằng đại bác không dật 106 ly. Hai chiếc khác đã vượt qua được, đang tiến tới chỗ trú ẩn của trung ta “Crossbow” và trung úy Longgrear. Họ đã phải xử dụng năm ống phóng M-72 mới hạ được một chiếc tiến đến gần vị trí của họ.
Khi chiến xa bị trúng hỏa tiễn M-72 khựng lại, không điều khiển được nữa, ba người lính Bắc Việt trong chiến xa, thủ tiểu liên AK-47, mở nắp pháo tháp nhẫy ra. Cả ba đều bị trung tá “Crossbow”, trung úy Qúy bắn hạ bằng súng tay và lựu đạn. Chiếc thứ hai đi vòng qua chiếc trúng hỏa tiễn, tiến lên tấn công toán “diệt chiến xa” bằng đại bác và đại liên. Cả toán chạy ra nấp đằng sau những thùng phi 55 gallons, đã hết nhiên liệu, chứa cát và đá như một bức tường xi măng cốt sắt. Trung tá “Crossbow” ra lệnh cho Longgrear chạy xuống hầm chỉ huy lấy thêm ống phóng M-72. Khẩu đại bác 76 ly trên chiến xa bắn tung một thùng cát đá 55 gallons, thêm một phát nữa xập nóc hầm chỉ huy (trung tâm hành quân) của trại LLĐB.
Trung úy Longgrear chứng kiến chiếc thùng phi 55 gallons bị chiến xa bắn tung lên, anh ta nghĩ thầm trung tá “Crossbow” chắc đã chết nên báo cáo cho đại úy Willoughby. Thực ra trong bốn người cùng với trung tá “Crossbow” chỉ bị thương, mỗi mình trung úy Qúy không sao. Cũng nhờ những loạt súng của trung úy Qúy nên bộ binh Bắc Việt chưa dám xung phong thanh toán những quân nhân bị thương.
Quả đạn đại bác nổ tung vào bức tường làm bằng những thùng phi chứa cát đá, làm cho Wilkins bị kẹt giữa những thùng phi ngất đi, McMurray bị thương nặng, mảnh đạn làm gẫy tay, mắt không nhìn được nữa. Trung tá “Crossbow” bị sức ép tung lên nhưng chỉ bị thương nhẹ nơi hông, gò má bên trái và tai. Ông ta vẫn bình tĩnh, dìu McMurray chạy ra chỗ khác, sau những lớp bao cát rồi quay trở lại cứu Wilkins. Trung úy Qúy vẫn tiếp tục bắn cầm chân địch quân, nói với “Crossbow”, phải chạy đến trú ẩn nơi một hố bom, đợi đến khi trời sáng, tìm đường thoát.
Trong lúc hỗn loạn, trung tá Schungel “Crossbow” vẫn nhận thức được, vài chiến xa địch đã tràn vào phòng tuyến hướng tây trại LLĐB và họ sắp sửa bị tiêu diệt. Các quân nhân LLĐB Việt Mỹ, vội vàng tổ chức thêm toán “diệt chiến xa”. Một quân nhân Mũ Xanh rất can đảm, năng động, đó là Dan Phillips, đã bị thương nhưng vẫn chiến đấu, anh ta đeo sau lưng mấy ống phóng M-72 và nhiều lựu đạn. Phillips tìm cách lại gần chiến xa địch để hạ chiến xa hiệu quả hơn.
Đến khoảng ba giờ sáng, quân Bắc Việt trong quân phục mầu xanh, đội nón sắt tràn vào bên trong căn cứ. Trung tá Schungel bàn với Wilkins lúc đó đã tỉnh táo chạy vào hầm chỉ huy, nhưng thấy không ổn vì căn hầm nhỏ khó chống cự nên hai người cùng với Bill Craig chạy vào trong dẫy nhà dành cho toán LLĐB/HK. Họ chia nhau ra mấy lỗ châu mai, tử thủ bên trong.
Khoảng 3:30 sáng, phi cơ bao vùng vẫn tiếp tục thả hỏa châu soi sáng bãi chiến trường. Từ trong nhà, Schungel nhìn ra thấy rõ năm lính Bắc Việt với súng AK-47 và bộc phá, ông ta bắn ra và lính Bắc Việt bắn trả lại làm ông ta bị thương lần nữa nơi chân trái. Sau đó Schungel cùng với Wilkins chạy ra bãi đổ vật liệu phế thải và ẩn náu ở đó.
Trong khi đó, Craig cùng với Tiroch và khoảng 50 dân sự chiến đấu chống trả quyết liệt. Nhóm này bị địch quân đẩy lui dần về phiá đông bắc căn cứ. Sau đó họ chia ra từng nhóm nhỏ, chui ra khỏi lớp hàng rào phòng thủ, rút về căn cứ cũ của trại LLĐB Lang Vei. Các quân nhân LLĐB khác cùng với các dân sự chiến đấu lui dần lên hướng bắc, rồi tìm cách rút ra khỏi căn cứ.
Nhóm của Craig ra khỏi lớp hàng rào bên trong, định vượt lớp bên ngoài thị bị địch phát giác bắn xối xả phải lui trở lại. Craig, Tiroch cùng với khoảng mười quân nhân LLĐB/VN kẹt lại. Lợi dụng ánh hỏa châu vừa tắt, nhóm này chạy ra khỏi căn cứ, nấp sau một bụi tre. Trên bầu trời, phi cơ thả bom xuống trại LLĐB, miểng bom làm bị thương hai quân nhân LLĐB/HK và một Việt Nam. Họ tạm thời tìm chỗ trú ẩn qua đêm, đợi khi trời sáng sẽ đi về căn cứ Khe Sanh.
Tình hình trong trại càng bết, quân Bắc Việt đã gần như làm chủ căn cứ. Hai chiến xa Bắc Việt đã bắn xập hai ngõ ra vào hầm chỉ huy. Một qủa đạn đại bác 76 ly làm hai quân nhân Mũ Xanh Early và Moreland bị thương nặng. Đại úy Willoughby chỉ huy trại LLĐB Lang Vei lúc đó không biết còn bao nhiêu người sống sót. Ông ta bị kẹt bên trong hầm chỉ huy, bên ngoài cũng không vào được nếu chưa thanh toán được hai chiếc xe tăng Bắc Việt.
Trong hầm chỉ huy ngoài Willoughby ra, còn có: Longgrear, Emmanuel Phillips, Brooks, Early, Morehead, Fragos, Dooms, sĩ quan chỉ huy toán A LLĐB/VN, đại đội trưởng 104, người thông ngôn và nhiều dân sự chiến đấu.
Trong lúc tuyệt vọng, đại úy Willoughby gọi căn cứ Khe Sanh, yêu cầu cho pháo binh tác xạ ngay trên đầu ông ta. Ông ta cũng yêu cầu cấp cứu vì tình thế đã “hết thuốc chữa”. Thủy Quân Lục Chiến thỏa mãn yêu cầu pháo binh, nhưng không thể đưa quân đến tiếp cứu được (sự thật TQLC sợ bị phục kích trên đường di chuyển từ Khe Sanh đến trại LLĐB Lang Vei lúc trời vẫn còn tối). Đi đường vòng cũng không được vì lộ trình xa hơn và vẫn có thể bị phục kích. Trực thăng không thể đổ quân xuống trại LLĐB được vì địch đã vào được bên trong.
Sự từ chối không đi cứu làm cho vị chỉ huy trưởng tất cả các đơn vị LLĐB/HK tại Việt Nam, đại tá Jonathan F. Ladd tức giận. Ông ta gọi điện thoại vào Saigon, yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với đại tướng Westmoreland. Tướng Westy, thức dậy duyệt xét tình hình và trả lời, ông ta không có quyền thay đổi quyết định của cấp chỉ huy trận điạ. (Trong quyển sách “Soldier Report” của ông ta. Tướng Westmoreland rất buồn về chuyện này. TQLC/HK là một quân chủng, có hệ thống chỉ huy hàng dọc của họ... cũng vì lý do đó, tướng Westmoreland xin về hưu khi đã lên chức Tham Mưu Trưởng Lục Quân).
Lính Bắc Việt đến bao vây xung quanh hầm chỉ huy và kêu gọi bằng tiếng Việt lên đầu hàng, nếu không họ sẽ cho chất nổ phá xập căn hầm. Các binh sĩ Thượng đã chiến đấu rất can đảm từ lúc đầu, nhưng họ đã cảm thấy đã đến lúc phải ra đầu hàng. Các quân nhân LLĐB vẫn tin họ có thể bất ngờ xông ra, do trung úy Longgrear dẫn đầu, tìm đường sống.
Trung úy Longgrear nấp một bên vách hầm, khi các binh sĩ người Thượng bới đống gạch vụn chui ra ngoài hầm chỉ huy. Lính Bắc Việt gờm sẵn tiểu liên AK-47, tịch thu vũ khí, bắt mấy tù binh cởi áo.
Lúc trời bắt đầu sáng Craig và Tiroch vẫn còn nghe tiếng súng, đó đây. Hai người di chuyển đến một chỗ kín đáo nhìn vào trong trại LLĐB quan sát. Họ trông thấy trung sĩ nhất Ashley, trung sĩ y tá Allen, cùng với binh nhất Johnson đang chỉ huy một toán quân người Lào từ căn cứ cũ trên đường kéo về tiếp cứu trại LLĐB Lang Vei. Ba quân nhân LLĐB/HK được biệt phái làm việc với người Lào khi họ di chuyển đến trại LLĐB cũ. Họ đã thuyết phục được vị đại tá Lào cho một toán quân đi theo ba người lính Mũ Xanh Hoa Kỳ.
Quân đội Bắc Việt đã hoàn toàn làm chủ căn cứ, đến phiên họ phải giữ. Khi toán quân Lào vừa vào đến gần hàng rào phòng thủ, bị đại liên chạy trở lại đường số 9 củng cố lại đội ngũ để phản công đợt hai. Craig và Tiroch rời chỗ núp, chạy xuống nhập vào đoàn quân đi cứu viện. Lần này địch pháo kích bằng súng cối làm đám quân người Lào bỏ chạy luôn. Lúc đó vào khoảng mười một giờ sáng, cố gắng cuối cùng giải cứu trại LLĐB Lang Vei thất bại.
Trung tá “Crossbow” Schungel cùng với Wilkins trốn nơi chứa vật dụng phế thải cũng bò ra khỏi căn cứ đến được chỗ an toàn. Họ làm dấu hiệu nhận quân bạn khi một phi cơ quan sát bao vùng bay ngang qua. Lúc đó, trung tá Schungel chỉ biết ông ta và Wilkins là hai người sống sót, còn số phận những người khác hoàn toàn không rõ.
Cả hai người đều bị thương, bước đi rất khó khăn. Trung tá Schungel được một quân nhân LLĐB/VN dìu bước đi trên đường số 9, sau đó gặp Craig và anh ta cõng vị trung tá LLĐB/HK đến căn cứ cũ, nơi có uân Lào đang trấn giữ.
Sau khi được băng bó vết thương, Schungel lên máy truyền tin liên lạc với hầm chỉ huy trong trại và nói chuyện được với đại úy Willoughby. Họ đồng ý sẽ gọi khu trục cơ thời đệ nhị thế chiến A-1 Skyraiders đánh bom vì loại máy bay này, bay chậm nên thả bom chính xác hơn các phản lực cơ.
Willoughby liên lạc với phi cơ quan sát để trận oanh kích hiệu qủa, rồi cả nhóm quân nhân LLĐB Việt Mỹ sẽ tìm cách chiến đấu chạy thoát ra ngoài căn hầm. Trong số những quân nhân sống sót trong hầm chỉ huy, chỉ có hai người không bị thương. Riêng Morehead bị thương nặng nơi đầu, và họ quyết định phải bỏ lại. Trung úy Longgrear đi đầu mở đường, đại úy Willoughby cùng với Emmanuel Phillips cõng Early.
Nhờ các phi cơ đánh bom, quân Bắc Việt không ngóc đầu lên được, nên cả nhóm thoát được ra ngoài, leo lên một xe Jeep do trung úy Qúy lái chạy thật nhanh đến căn cứ LLĐB cũ. Trung tá Schungel gọi trực thăng đến bốc tất cả về Khe Sanh.
Một đoàn trực thăng khác cùng với trực thăng võ trang Cobra hộ tống bay vào trại LLĐB Lang Vei. Trên trực thăng có thiếu tá Quamo, MACV-SOG (Lôi Hổ) chỉ huy một toán biệt kích đoàn Nghiên Cứu Quan Sát bay vào trại để cứu hoặc đem về những xác chết LLĐB Hoa Kỳ. Một đoàn trực thăng khác đem vào căn cứ mười quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ cùng với bốn mươi dân sự chiến đấu vào làm thành một lớp bảo vệ cho toán biệt kích MACV-SOG tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ.
Khoảng 5 giờ chiều, quân nhân Mũ Xanh Todd chui ra khỏi hầm quân y. Anh ta chui xuống hầm chỉ huy trông thấy xác Morehead nằm chết dưới lớp cát đá. Nghe tiếng trực thăng, Todd chạy lên, và là quân nhân LLĐB cuối cùng được cứu thoát.
Sau trận tấn công trại LLĐB Lang Vei, mười trong số hai mươi bốn quân nhân LLĐB/HK bị coi như mất tích. Vài hôm sau, xác của Burke và Ashley được tìm thấy. Thompson, Brande và McMurray bị bắt và được trả về trong chiến dịch “Trở Về Nhà” (Home Coming) năm 1973 khi Bắc Việt ký hiệp định Paris. Holt và dan Phillips vẫn còn “mất tích” cho đến ngày nay. Kể thêm hai quân nhân Mũ Xanh Lindewald và Hanna nơi “tiền đồn” và Morehead trong hầm chỉ huy... Biết chắc họ đã chết nhưng vẫn không thâu hồi được xác. Riêng Ashley được ân thưởng huy chương Danh Dự (Medal of Honor) đã chỉ huy đám quân Lào quay trở lại tiếp cứu cho trại.
Theo tài liệu: William R. Phillips “The magnificent Sacrifice”, Behind The Line magazine 1996, page: 10-21.
Dallas, Texas March 18, 2010
12/5/1968
Lời nói đầu: rất ít tài liệu viết về câu chuyện xẩy ra ngày 12 tháng 5 năm 1968. Đó là một câu chuyện rất can đảm trong trận chiến tranh Việt Nam, thực ra trong tất cả các trận chiến tranh. Trong ngày hôm đó, một số quân nhân thuộc Không Lực Hoa Kỳ lái vận tải cơ C-130, phi công trực thăng cùng với phi hành đoàn Lục Quân, TQLC đã quên mạng sống của mình để lo di tản đơn vị phòng thủ Dân Sự Chiến Đấu trại Lực Lượng Đặc Biệt Khâm Đức. Một tiền đồn biễn phòng trong miền nam Việt Nam gần biên giới Lào-Việt.
KHÂM ĐỨC NAM VIỆT NAM
Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đến Khâm Đức năm 1963. Đây là một khu vực hẻo lánh gần như không có dân cư, thuộc miền viễn tây trong một vùng lãnh thổ mà sau này là quân đoàn I, vùng I chiến thuật VNCH. Cả khu vực chỉ có một ngôi làng nhỏ, nằm lặng lẽ trong thung lũng, xung quanh có những ngọn đồi cao hơn 2000 bộ (feet) bao bọc.
Chỉ cách biên giới Lào-Việt vài dặm, trại LLĐB Khâm Đức là một điạ điểm rất tốt để đưa những toán biệt kích, viễn thám xâm nhập vào đất Lào. Khi chiến tranh lan rộng, gia tăng cường độ, trại LLĐB Khâm Đức có thêm nhiệm vụ, huấn luyện các đại đội Dân Sự Chiến Đấu. Các đại đội DSCĐ này được tuyển mộ từ các sắc dân thiểu số trong miền nam và đưa lên Khâm Đức huấn luyện, sau đó đưa ra các trại LLĐB biên phòng.
Trại LLĐB Khâm Đức được thiết lập chỉ cách ngôi làng một quãng ngắn, để cho các dân sự chiến đấu được sống gần gia đình. Trong vòng 5 năm trước ngày định mệnh “Ngày Lễ Của Mẹ” (Mother’s Day, 12 tháng 5), hàng tấn dụng cụ, vật liệu, đồ tiếp tế được phi cơ vận tải C-130, C-123 thuộc Không Lực Hoa Kỳ đưa vào trại thường xuyên. Để cho phi cơ vận tải lên xuống dễ dàng, một phi đạo dài 6000 bộ (feet) được xây dựng, nằm trong thung lũng giữa trại LLĐB và ngôi làng Thượng.
Trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, làm cho trại LLĐB Khâm Đức tăng lên độ quan trọng chiến thuật. Trong hai ngày 6 và 7 tháng Hai năm 1968, trại LLĐB Lang Vei rơi vào tay quân đội Bắc Việt. Cũng trong cùng thời gian, 5000 TQLC/HK và một tiểu đoàn BĐQ/VN (TĐ37/BĐQ) nằm trấn giữ căn cứ Khe Sanh 77 ngày, chống lại 20000 quân Bắc Việt bao vây căn cứ. Căn cứ Khe Sanh chỉ cách trại LLĐB Khâm Đức chừng 100 dặm về hướng bắc. Đến cuối tháng Tư 1968, trại LLĐB Khâm Đức là tiền đồn biên phòng cuối cùng còn sót lại ngoài quân đoàn I và vị trí chiến lược của căn cứ đã được cả hai phiá (Đồng Minh/CS) để ý.
Sau khi trận bao vây căn cứ Khe Sanh chấm dứt, quân đội Bắc Việt di chuyển về hướng nam... Khâm Đức. Họ đưa quân lên chiếm những ngọn đồi bao quanh trại LLĐB Khâm Đức và phi đạo trong thung lũng, và đến hết tuần lễ đầu trong tháng Năm, quân đội Bắc Việt đã sẵn sàng để tấn công. Trung đoàn 1, sư đoàn 2 Bắc Việt được trang bị đầy đủ vũ khí, tiếp liệu và quân số đã trên chân quân phòng thủ trại LLĐB. Các cấp chỉ huy quân đội Đồng Minh đã có thể nhìn thấy trước mắt một trận Lang Vei thứ hai sắp xẩy ra.
Bộ tư lệnh Quân Viện (MACV) tức tốc ra lệnh đưa thêm quân lên tăng cường trại LLĐB Khâm Đức. Trước khi viện binh ra đến nơi, quân đội Bắc Việt đã bắt đầu tấn công vào sáng sớm hôm thứ Sáu ngày 10 tháng Năm 1968.
Những quả đạn súng cối rơi xuống các tiền đồn nằm bên ngoài căn cứ trước 3 giờ sáng. Sau đó bộ binh Bắc Việt tấn công với sự yểm trợ của súng đại liên và đại bác không dật 57, 75 ly. Từ trên các cao điểm, họ bắn đại bác không dật rất chính xác vào các vị trí phòng thủ của quân đội Hoa Kỳ và VNCH. Bốn mươi lăm phút sau, địch quân mở mũi tấn công thứ hai vào một tiền đồn cấp đại đội phòng thủ vững chắc trên ngọn núi Ngok Tavak.
Ngok Tavak nằm cách trại LLĐB Khâm Đức khoảng năm dặm, nơi dòng sông xuôi về hướng nam. Tiền đồn này được một đại đội 113 dân sự chiến đấu bảo vệ, cùng với 8 cố vấn LLĐB, 3 cố vấn Úc Đại Lợi (Australia). Trong căn cứ còn có một trung đội pháo binh TQLC/HK, với 33 quân nhân thuộc pháo đội D, tiểu đoàn 2, trung đoàn 12 TQLC/HK.
Ngày hôm trước, Ngok Tavak nhận thêm một trung đội dân sự chiến đấu đến từ Khâm Đức. Trung đội này được trao cho nhiệm vụ trấn giữ phòng tuyến bên ngoài tiền đồn. Trung đội này đã bị địch quân gài nội tuyến, nên khi quân đội Bắc Việt mở trận tấn công, mấy tên nội tuyến chạy vào bên trong nơi tuyến phòng thủ TQLC/HK có hai khẩu đại bác, ném lựu đạn vào.
Đến 5 giờ sáng, tiền đồn Ngok Tavak, rải rác những xác chết và những người bị thương Việt, Mỹ. Địch quân tấn công vào tuyến phòng thủ hướng đông, trực thăng võ trang được gọi lên oanh kích sát ngay tuyến phòng thủ bên trong, mặc dầu rải rác trong đó có xác hoặc người binh sĩ bị thương thuộc quân bạn. Đó là cách duy nhất để cứu những người còn sống sót.
Khi trời sáng, cố vấn Úc Đại Lợi (LLĐB/SAS Úc) chỉ huy dân sự chiến đấu, phản công, đẩy lui địch quân ra khỏi tuyến phòng thủ để TQLC/HK phá hủy hai khẩu đại bác. Tiếp theo là đoàn trực thăng Hoa Kỳ đổ xuống tiền đồn thêm 45 dân sự chiến đấu đến tiếp viện và di tản những người bị thương nặng. Trong lúc đổ quân, một trực thăng trúng đạn nơi thùng xăng phải đáp khẩn cấp, một chiếc khác bị hỏa tiễn điạ-không bắn rơi, nổ tung như quả cầu lửa. Khi chiếc trực thăng cuối cùng rời tiền đồn Ngok Tavak, hai quân nhân LLĐB/VN một Hoa Kỳ bám theo càng trực thăng, tất cả đều bị rơi xuống, chết trong rừng.
Bị đẩy lùi ra những triền núi xung quanh Ngok Tavak, quân đội Bắc Việt tiếp tục pháo kích súng cối vào căn cứ. Ngok Tavak gửi công điện, yêu cầu được rút lui, nhưng không được chấp thuận. Họ được lệnh nằm chờ thêm quân lên tiếp viện.
Trong phi trường Tân Sơn Nhất, trung sĩ Không Quân Mort Freedman sau khi gác điện thoại, lên tiếng gọi người bạn thật to “Nhanh lên Jim. Mình có nhiệm vụ”. Trung sĩ Jim Lundie cùng với Freedman lên chiếc xe Jeep đặc biệt của họ chạy lại một phi cơ C-130 đang đậu trong phi trường. Chiếc xe Jeep, cũng đi theo họ, đằng sau xe là máy móc truyền tin trị giá 60000 đô la, đó cũng là vũ khí của hai quân nhân Hoa Kỳ.
Hai trung sĩ Freedman và Lundie là “chuyên viên hành quân”, điều hành không trợ. Họ được huấn luyện đặc biệt như LLĐB nên được phép đội mũ beret xanh, mặc dầu cả hai thuộc quân chủng Không Quân. Cùng đi với họ là thiếu tá John Gallagher, phi công C-130, ba người cùng chiếc xe Jeep lên một chiếc máy bay C-130 đợi sẵn theo lệnh của MACV, đưa họ đến trại LLĐB Khâm Đức để điều động cuộc di tản.
Nhiệm vụ của ba người là “điều không”, xắp xếp những chuyến C-130 đem đến trại vũ khí nặng, đạn dược, đồ tiếp vận, và một tiểu đoàn thuộc lữ đoàn Bộ Binh Nhẹ 196, thuộc sư đoàn Americal, từ căn cứ Chu Lai lên tăng viện. (sư đoàn Americal là thủ phạm trong vụ Mỹ Lai).
Trong khi đó tiền đồn Ngok Tavak đã hết sức chịu đựng các đợt tấn công, pháo kích của địch. Đạn dược cũng đã gần cạn, cùng với các đồ tiếp liệu. Tinh thần quân phòng vệ đã xuống, ít người tin tưởng nơi viện binh. Đến trưa, binh sĩ phòng thủ tiền đồn Ngok Tavak, gom súng ống, cùng với tất cả đồ trang bị tiếp liệu không đem theo được, ra đốt. Họ xử dụng ống phóng hỏa tiễn M-72 bắn cháy chiếc trực thăng lâm nạn để khỏi lọt vào tay địch quân.
Cuộc rút lui trong vội vã, dưới hỏa lực của địch buộc lòng các quân nhân Hoa Kỳ phải bỏ lại xác chết đồng đội. Trong đó có y tá Thomas Perry, người vừa mới đến buổi sáng hôm đó để chăm sóc thương binh. TQLC/HK lập một toán gồm 11 binh sĩ đi tìm thi hài của đồng đội (Perry). Trong khi đó LLĐB Việt-Mỹ, Úc phân tán ra từng toán nhỏ len lỏi, thoát qua được vòng vây của lính Bắc Việt. Năm tiếng đồng hồ sau khi quân đội Bắc Việt tràn ngập Ngok Tavak, hầu hết các quân nhân LLĐB được trực thăng cấp cứu đi tìm, cứu thoát, kéo lên từ trong rừng sâu. Mười một binh sĩ TQLC Hoa Kỳ cùng với y tá Thomas Perry, không một ai trở về, họ bị coi như mất tích cho đến ngày nay.
Khi chiếc C-130 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất, chở theo toán “điều không” đến không phận trại LLĐB Khâm Đức, ba quân nhân thuộc Không Lực Hoa Kỳ cảm thấy thích thú. Họ đã từng đến Khâm Đức trước đó và cho rằng khung cảnh đồi núi trong khu vực thật hùng vĩ... thật yên bình. Phi đạo Khâm Đức cũng thuộc loại tốt nhất, được công binh Hoa Kỳ xây thật chắc chắn. Cả ba người vẫn cứ tưởng rằng đến Khâm Đức để xắp xếp, điều động mấy chiếc phi cơ vận tải đem đồ tiếp tế đến cho trại LLĐB... Như một chuyến đi dạo trong công viên.
Giấc mơ của ba người biến mất khi chiếc C-130 đáp xuống. Phi đạo Khâm Đức không còn tốt như xưa nữa, cả ba người lo đem đồ nghề xuống gấp rút, xe Jeep cùng với một phòng nhỏ (trailer) để họ làm việc, dưới tiếng đạn pháo kích của địch. Chưa đầy một phút sau, một viên đạn súng cối nổ tung, làm hư hại cái trailer của họ. Cả ba người nhẩy vội lên chiếc xe Jeep, chạy đến gần một giao thông hào phòng thủ. Địch quân vẫn pháo kích, Lundie và Freedman dựng cột antena lên để liên lạc với các phi cơ vận tải C-130 đang trên đường đến.
Trung sĩ Lundie chạy trở lại cái trailer đã bị hư hại lấy bình điện để chạy máy truyền tin. Trong lúc hối hả, tháo rỡ bình điện, Lundie bị gẫy tay, được một y tá LLĐB băng bó và khuyên anh ta nên đón chuyến C-130 sắp đến về Cam Ranh nhưng Lundie từ chối, ở lại với bạn.
Rồi các chiếc vận tải cơ C-130 đến đổ xuống Khâm Đức một tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ cùng với súng đạn, đồ tiếp vận của họ. Tiểu đoàn Bộ Binh Hoa Kỳ vào vị trí phòng thủ xung quanh phi đạo, những cao điêm trong khu vực Khâm Đức ngay tức khắc. Toán “điều không” đã hoàn thành nhiệm vụ, hướng dẫn tất cả mười một chuyến C-130 đáp xuống phi đạo Khâm Đức, dưới tiếng đạn pháo kích của địch.
Đêm hôm đó (11 tháng Năm 1968), các tiền đồn bên ngoài trại LLĐB Khâm Đức đều báo cáo quân đội Bắc Việt đưa một đơn vị cấp lớn vào bao vây căn cứ. Các tiền đồn này sau đó mất liên lạc và đến sáng hôm sau, lệnh di tản được ban hành.
DI TẢN TRẠI LLĐB KHÂM ĐỨC
Từ mấy năm qua, trại LLĐB Khâm Đức là một căn cứ thâu thập tin tức tình báo về các cuộc chuyển quân của quân đội Bắc Việt trên hệ thống đường mòn HCM. Đơn vị Nghiên Cứu Quan Sát (SOG – NKT) cũng xử dụng trại LLĐB này làm căn cứ hành quân tiền phương (FOB) cho những toán biệt kích xâm nhập vào đất Lào, dò thám, đánh phá các binh trạm, cơ sở hậu cần của địch. Trong mùa Xuân năm 1968, quân đội Bắc Việt đã quyết định thanh toán trại LLĐB biên phòng này. Vào đầu tháng Năm, tình báo quân lực Đồng Minh được biết quân đội Bắc Việt đã đưa vào khu vực núi non xung quanh căn cứ nhiều đơn vị cấp lớn.
Ngày 10 tháng Năm, trại LLĐB Khâm Đức được quân của lữ đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ, không vận từ căn cứ Chu Lai lên tăng cường. Ngày hôm sau, một tiền đồn trên núi Ngok Tavak bị tấn công. Đến buổi tối, đại tướng Westmoreland cho rằng trại LLĐB Khân Đức không đủ sức chống lại trước áp lực của địch quân và không muốn căn cứ bị tràn ngập nên ra lệnh di tản khỏi căn cứ bắt đầu từ buổi sáng ngày hôm sau.
Trong kế hoạch, cuộc di tản sẽ xử dụng trực thăng, nhưng khi đoàn trực thăng vừa đến trại, tiếng súng địch nổ khắp nơi, bắn rơi một trực thăng, chương trình di tản phải tạm ngưng. Trong vòng vài tiếng đồng kế tiếp, binh sĩ dân sự chiến đấu trong trại hoang mang, sẽ được di tản, hoặc không. Buổi sáng hôm đó, một vận tải cơ C-130 thuộc phi đoàn 21 Không Vận Chiến Thuật do trung tá Darel D. Cole cùng với phi hành đoàn bay lên trại LLĐB Khâm Đức, tiếp tế một kiện hàng lớn, dường như ông ta cùng với phi hành đoàn, căn cứ đang chuẩn bị di tản. Chiếc máy bay vừa ngừng trên phi đạo, một đám thường dân Việt Nam đổ xô lên máy bay làm nhân viên phi hành không rỡ kiện hàng được. Tiếp theo, súng địch nổ dòn và chiếc máy bay trúng đạn nhiều chỗ, một bánh bị trúng đạn xẹp, làm chiếc phi cơ không cất cánh được, phải lết vào chỗ đậu.
Những người Việt Nam vội chạy ra khỏi phi cơ, nhẩy xuống hào tránh đạn. Phi hành đoàn chiếc phi cơ C-130 cố gắng dùng lưỡi lê, dao găm cắt bỏ chiếc bánh bị trúng đạn xẹp. Trong khi đó một phi cơ vận tải C-123 do thiếu tá Ray D. Shelton lái, đáp xuống đón một nhóm người Việt Nam cùng với binh sĩ Công Binh Hoa Kỳ, rồi vội vàng cất cánh. Phi hành đoàn chiếc C-130 sau khi cắt bỏ được chiếc bánh bị hư, đón được những quân nhân thuộc Không Lực Hoa Kỳ còn lại trong trại, lái chiếc máy bay trúng đạn bay về Cam Ranh. Một nhóm 3 quân nhân Hoa Kỳ khác thuộc toán điều hành không vận, được một chiếc C-130 khác đến đón.
Trận đánh sơ khởi buổi sáng hôm đó, chỉ xẩy ra xung quanh phi đạo trại LLĐB Khâm Đức. Đã có vài phi cơ, trực thăng bị hỏa lực phòng không của địch bắn rơi, trong đó có máy bay quan sát O-2, viên phi công đáp chiếc máy bay trúng đạn đáp xuống phi đạo an toàn. Qua buổi chiều tướng Westmoreland thông báo cho Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ bắt đầu cuộc di tản bằng vận tải cơ cỡ lớn C-130.
Chiếc C-130 đầu tiên đáp xuống trại LLĐB để di tản dân sự chiến đấu do thiếu tá Bernard Bucher thuộc phi đoàn 774 Không Vận Chiến Thuật. Thiếu tá Bucher đem được lên phi cơ hơn 200 người Việt Nam vội vã cất cánh bay lên. Chiếc C-130B bị trúng đạn từ hai khẩu đại liên 50 bắn lên, lảo đảo rơi xuống một khoảng vườn, nổ tung. Chiếc AC-130E do trung tá Bill Boyd đáp xuống tiếp theo. Khi cất cánh ông ta chọn chiều ngược lại và bay thoát. Chiếc AC-130 thứ ba đáp xuống, cũng thuộc phi đoàn 21 Không Vận Chiến Thuật do trung tá John Delmore lái. Chiếc này khi đáp xuống đã trúng đạn đại liên, bay mất phần trên (mái, nóc) của buồng lái, hư hại bộ phận điều khiển động cơ máy bay. Trung tá Delmore, cố gắng lái chiếc máy bay bất kiển dụng đáp xuống phi đạo, rồi tách ra ngoài để khỏi làm trở ngại các phi cơ khác lên xuống phi đạo.
Các phi tuần phản lực được điều động lên đánh xung quanh phi đạo, để cuộc di tản được tiếp tục. Kết qủa chiếc thứ tư đáp xuống, đón người và cất cánh an toàn. Ba chiếc xuống tiếp theo cũng thành công, bay về an toàn.
Trong khi các vận tải cơ C-130 lên xuống di tản thường dân, dân sự chiến đấu ra khỏi trại LLĐB Khâm Đức, các trực thăng Lục Quân và TQLC Hoa Kỳ lợi dụng địch chỉ lo bắn các phi cơ vận tải, đã vào “bốc” những quân nhân Hoa Kỳ cùng quân binh chủng với họ. Chỉ trong vòng ít phút, khoảng 500 người đã được di tản. Khi chiếc C-130 cuối cùng đem theo toán LLĐB/HK cố vấn của trại LLĐB, một chiếc khác đem vào căn cứ toán điều hành di tản, gồm ba quân nhân mà trước đã được đem đi.
Cuối cùng LLĐB/HK báo cáo, trại LLĐB đã được di tản với số tổn thất hai vận tải cơ C-130, năm phi cơ khác bao gồm trực thăng, phi cơ thám thính, tất cả bẩy chiếc bị bắn rơi, phải bỏ lại. Tuy nhiên, chuyện sắp tới sẽ là điều đáng ghi nhớ nhất trong cuộc di tản trại LLĐB Khâm Đức.
Chiếc C-130 thứ tám đưa ba quân nhân Hoa Kỳ đáp xuống trại LLĐB, để làm nhiệm vụ điều hành cuộc di tản. Đó là thiếu tá John Gallagher, một phi công lái C-130 trong phi đoàn 463 Không Vận Chiến Thuật, và hai trung sĩ Mort Freedman, James Lundie. Cả ba người chạy thật nhanh ra khỏi phi cơ vào trong trại LLĐB. Trung tá Jay Van Cleef lái chiếc C-130 đưa họ vào chờ vài phút vẫn không thấy ai trở ra, ông ta cất cánh bay về căn cứ không quân.
Trong khi đang lấy cao độ, trung tá Van Cleef nghe trên hệ thống vô tuyến rằng, trại LLĐB đã hoàn tất việc di tản. Ông ta trả lời “Không đúng”, vì còn ba quân nhân Hoa Kỳ trong căn cứ. Sau này, ba quân nhân Hoa Kỳ trở về khai rằng, tiếp theo đó là một chuỗi im lặng vô tuyến.
Chiếc phi cơ kế tiếp, theo thứ tự sẽ bay vào trại LLĐB Khâm Đức là một chiếc C-123 do trung tá Alfred Jeanotte. Ông ta đáp xuống, rồi lại cất cánh vì không thấy có người chạy ra trên phi đạo. Phi hành đoàn trên máy bay, nhìn thấy ba quân nhân Hoa Kỳ đang ẩn nấp dưới một chiến hào, nhưng phi cơ thiếu nhiên liệu nên không thể đáp xuống trại LLĐB lần nữa. Cứu ba quân nhân Hoa Kỳ này là do công của chiếc C-123 kế tiếp, do trung tá Joe M. Jackson lái, phi công phụ là thiếu tá Jesse Campbell, một phi công trong phi đoàn Cảm Tử (Air Commando) 315. Với chiến tích này, trung tá Jackson được ân thưởng huy chương Danh Dự.
Trung tá Jackson không phải là người duy nhất được thưởng huy chương trong cuộc di tản trại LLĐB Khâm Đức. Thiếu tá Bucher (tử trận, phi cơ rớt nổ tung) được huy chương của Không Lực vì lòng quả cảm của ông ta. Ngoài ra còn nhiều phi công khác thuộc Không Lực Hoa Kỳ được thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh. Cuộc di tản trại LLĐB Khâm Đức là một ngày chứng tỏ sự hy sinh, lòng can đảm của các phi công Hoa Kỳ.
Trong khi tất cả báo cáo đều tập trung vào chuyến bay C-123 cuối cùng, đem về được ba quân nhân Hoa Kỳ, và cuộc di tản đã hoàn tất tốt đẹp. Trên thực tế, chỉ độ một nửa (500) trong số 1000 quân nhân, dân sự chiến đấu trong trại LLĐB được các phi cơ vận tải Hoa Kỳ di tản. Số kẹt lại đã phải phân tán ra thành nhiều toán nhỏ, lẩn tránh trong rừng, thoát ra khỏi vòng vây của quân đội Bắc Việt. Trong số đó, chỉ một số ít người may mắn được trực thăng tìm thấy “bốc” đem về (tạm thời trong một căn cứ thuộc LLĐB).
Ngoài ra, còn một số binh sĩ thuộc lữ đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ đang nằm bảo vệ các cao điểm xung quanh căn cứ cũng bị kẹt lại cùng với LLĐB/VN và dân sự chiến đấu. Khoảng mười hai quân nhân Hoa Kỳ thuộc lữ đoàn này sống sót, được trực thăng cứu thoát khi lẩn trốn trong rừng. Một số tử trận và một người bị bắt. Binh sĩ bị địch bắt, đưa ra ngoài bắc và được trả tự do năm 1973 trong đợt trao trả tù binh “Home Coming”.
Tổn thất trong cuộc di tản trại LLĐB Khâm Đức ngày 12 tháng Năm 1968: 259 thường dân chết (người Thượng), thêm khoảng hơn 100 người chết trong chiếc phi cơ C-130 bị rơi, 25 quân nhân Hoa Kỳ tử trận, LLĐB/VN không thấy nói tới, 2 trực thăng CH-47 Chinook (AC-475, 469), 2 trực thăng CH-46 của TQLC/HK, 2 vận tải cơ C-130 của Không Quân, 1 trực thăng UH-1 Lục Quân, và 1 máy bay quan sát O-2.
Chú thích: Toán A-105 LLĐB/HK nhận bàn giao trại LLĐB Khâm Đức từ liên đoàn 7 LLĐB/HK. Trại LLĐB Khâm Đức nằm trong quận Hiệp Đức, tỉnh Quảng Tín. Trước khi liên đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ qua tham chiến tại Việt Nam, một toán A LLĐB thuộc liên đoàn 1 LLĐB/HK đến lập căn cứ nơi một đồn binh cũ của người Pháp để lại, cũng trong khu vực. Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (MACV-SOG, NKT/TTM) đến Khâm Đức lập một căn cứ hành quân tiền phương (FOB) cho các toán biệt kích SOG/Lôi Hổ xâm nhập vào khu vực miền nam nước Lào, vì trại LLĐB Khâm Đức gần biên giới Lào-Việt. Sau đó, đơn vị MACV-SOG dời căn cứ hành quân tiền phương đi Hớn Quản (B-33) ngày 25 tháng Sáu năm 1965. Một toán A trong chương trình Gamma (B-57, tuyển mộ điệp viên nằm vùng) đến trại LLĐB Khâm Đức làm việc trong khoảng giữa năm 1967. Trại LLĐB Khâm Đức còn có một căn cứ hành quân tiền phương trên núi Ngok Tavak, căn cứ này bị địch tràn ngập một ngày trước khi căn cứ chính di tản ngày 12 tháng Năm 1968. Trại LLĐB di chuyển đến Nông Sơn ngày 1 tháng Sáu năm 1968. Đến ngày 31 tháng Mười năm 1970, trại LLĐB Nông Sơn chuyển giao cho Biệt Động Quân và trở thành tiểu đoàn 78 BĐQ Biên Phòng.
Dallas, TX.
vđh
LLĐB KHÂM ĐỨC (A-105)
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Khâm Đức (A-105) nằm về hướng tây tỉnh Quảng Tín. Trong mùa Xuân năm 1968, nó là căn cứ biên phòng duy nhất còn đứng vững trong vùng I chiến thuật. Đơn vị nhận lãnh trách nhiệm yểm trợ, tiếp ứng cho trại LLĐB Khâm Đức được trao cho sư đoàn 23 (Americal) Bộ Binh Hoa Kỳ đóng trong căn cứ Chu Lai nơi bờ biển.
Liên đoàn 1 LLĐB/HK đến Việt Nam trong tháng Chín năm 1963, đưa một toán A/LLĐB đến thám sát khu vực và cho rằng, Khâm Đức đã có sẵn một phi đạo cũ, là một điạ điểm lý tưởng để theo dõi, bảo vệ đường biên giới Việt-Lào. Trại LLĐB Khâm Đức được xây dựng trong một thung lũng, trên một khu đất phẳng, với cỏ tranh, xung quanh là rừng núi âm u, dường như không có người bén mảng đến. Ngôi làng nhỏ duy nhất trong khu vực nằm bên kia phi đạo, là nơi ăn ở, sinh sống, vợ con đơn vị dân sự chiến đấu, được tuyển mộ phòng thủ căn cứ.
Về hướng tây trại LLĐB là rặng núi Ngok Peng Bum, phiá đông là rặng Ngok Pe Xar. Từ trên núi có nhiều thác, nước chẩy rất mạnh xuống suối chia đôi mầu xanh thẫm của rừng núi. Giòng sông Dak Mi, chẩy ngang qua, khu vực trại LLĐB khoảng một dặm, dưới bóng mát rặng núi Ngok Pe Xar. Dọc theo dòng sông Dak Mi khoảng năm dặm về hướng nam có một căn cứ hành quân tiền phương Ngok Tavak. tại đây có 113 dân sự chiến đấu thuộc đại đội 11 xung kích, tiếp ứng Mike Force cùng với 8 quân nhân LLĐB Việt-Mỹ và ba cố vấn LLĐB (SAS) Úc Đại Lợi trấn đóng. Vì căn cứ Ngok Tavak nằm ngoài tầm yểm trợ của pháo binh bạn, nên được tăng cường một trung đội 33 quân nhân Pháo Binh TQLC/HK, thuộc pháo đội D, tiểu đoàn 2, trung đoàn 12 TQLC với hai khẩu đại bác 105 ly.
Đại úy Christopher J. Silva chỉ huy toán A-105 LLĐB/HK đáp trực thăng vào căn cứ Ngok Tavak ngày 9 tháng Năm 1968 để xem xét lại việc phòng thủ, vì ông ta đã được biết quân đội Bắc Việt đưa thêm quân vào trong khu vực trại LLĐB Khâm Đức. Vấn đề này làm đại úy Silva lo ngại, một trận tấn công sắp xẩy ra. Hôm đó thời tiết xấu, trực thăng không vào đưa ông ta trở về trại LLĐB Khâm Đức. Tiếp theo là một trung đội dân sự chiến đấu từ Khâm Đức, đi tuần bị phục kích cũng chạy đến căn cứ Ngok Tavak. Sau này mới biết trung đội này đã bị địch quân gài người vào làm nội tuyến.
Khoảng 3 giờ 15 phút sáng ngày 10 tháng Năm, quân đội Bắc Việt mở trận tấn công căn cứ Ngok Tavak. Căn cứ bị pháo kích bằng súng cối và đại bác không dật, bắn thẳng từ những sườn núi bao quanh căn cứ. Khi địch quân bắt đầu tấn công bằng bộ binh, các dân sự chiến đấu từ trại LLĐB Khâm Đức, bỏ phòng tuyến chạy vào bên trong la lớn “Đừng bắn. Quân bạn”, rồi bất ngờ ném lựu đạn vào ụ súng đại bác 105 ly.
Bị vố bất ngờ, quân trú phòng bị tổn thất nhưng giết tất cả mấy tên nội tuyến. Quân đội Bắc Việt được lợi thế, từ trên các sườn đồi bắn đại liên xuống làm cho đơn vị xung kích Mike Force không ngóc đầu lên bắn trả được. Địch quân xử dụng súng phun lửa đốt kho chứa đạn làm cháy sáng cả đêm. Binh sĩ LLĐB/HK Harold M. Swicegood và trung đội trưởng TQLC/HK, thiếu úy Adams bị thương nặng được đưa vào hầm chỉ huy (trung tâm hành quân) của căn cứ. Đúng lúc đó y tá Blomgren chạy vào báo cáo nhân viên trong khẩu đội súng cối đã bỏ vị trí. Đại úy Silva chạy ra xử dụng khẩu súng cối 4,2 ly, sau đó bị thương. Khoảng 5 giờ sáng, trung sĩ Glen Miller chạy ra ụ súng đại bác 105 ly, bị trúng đạn vào đầu chết ngay tức khắc.
Quân đội Bắc Việt chọc thủng phòng tuyến hướng đông căn cứ Ngok Tavak, di chuyển các khẩu đại liên vào sát hàng rào phòng thủ. Trong tình thế cấp bách, căn cứ yêu cầu phi cơ “Hỏa Long” AC-47 tác xạ xung quanh tuyến phòng thủ căn cứ và ụ súng đại bác, mặc dầu có thể còn quân bạn, chỉ bị thương chưa ra khỏi ụ súng đại bác. Cuộc tấn công của địch khựng lại, hai bên chỉ nằm thủ, ném lựu đạn qua lại cho đến sáng.
Khi trời bắt đầu sáng, hai sĩ quan cố vấn LLĐB Úc Đại Lợi, Cameron, Lucas, có thêm Blomgren, chỉ huy dân sự chiến đấu (Mike Force) phản công đẩy lui địch quân ra khỏi căn cứ, chiếm lại khẩu đại bác 105 ly. Pháo binh TQLC Hoa Kỳ bắn hết chín qủa đạn còn lại rồi phá hủy khẩu súng. Sau đó trực thăng tản thương được các trực thăng võ trang yểm trợ bay đến căn cứ di tản các thương binh, trong đó có đại úy Silva và Swicegood.
Một lực lượng xung kích tiếp ứng Mike Force, khoảng 45 người thuộc đại đội 12 Mike Force do đại úy Eugene E. Makowski chỉ huy được hai trực thăng CH-46 (giống như CH-47 Chinook) của TQLC/HK đưa vào căn cứ Ngok Tavak thay thế số quân nhân bị chết và bị thương. Một chiếc trực thăng bị trúng đạn nơi ống dẫn xăng, phải đáp xuống, chiếc thứ hai trúng hỏa tiễn nổ tung, rơi trên bãi đáp. Những quân nhân bị thương còn sót lại được một trực thăng chỉ huy đang bao vùng đáp xuống căn cứ, di tản.
Binh sĩ lực lượng xung kích, xuống tinh thần, kiệt sức, đạn dược, nước uống cũng đã gần cạn, trong khi địch quân vẫn tiếp tục pháo kích bằng súng cối vào căn cứ. Cấp chỉ huy trong căn cứ yêu cầu được rút lui (di tản), nhưng được trả lời “Giữ vững phòng tuyến... Quân tiếp viện đang trên đường đến căn cứ”. Đến giữa trưa vẫn không thấy quân tiếp viện đến... Nếu tình trạng kéo dài đến tối, địch quân sẽ tràn ngập căn cứ. Một tiếng đồng hồ trôi qua, cấp chỉ huy trong căn cứ quyết định rút bỏ tiền đồn Ngok Tavak.
Thomas Perry, một y tá LLĐB, được đưa đến căn cứ lúc 5 giờ 30 phút sáng để chăm sóc thương binh. Anh ta vừa lo cho người bị thương vừa ra trám vào tuyến phòng thủ khi lệnh “rút bỏ căn cứ” được thông báo. Khi những quân nhân sống sót bắt đầu bỏ vị trí chiến đấu, di chuyển ra khỏi căn cứ, Perry được nhìn thấy lần cuối cùng bởi trung sĩ Cordell J. Matheney Jr. đứng cách Perry khoảng 20 thước. Lúc đó đại úy LLĐB Úc Đại Lợi John White đang cho quân tập họp một hàng dọc bên lớp hàng rào phòng thủ tuyến ngoài. Như vậy có thể tin là Perry sẽ nhập vào đoạn cuối đoàn quân triệt thoái.
Trước khi rút lui, quân trú phòng vội vã gom tất cả vũ khí, quân dụng nặng không mang theo được, bỏ vào hầm chỉ huy rồi đốt bỏ. Chiếc trực thăng bị trúng đạn nơi ống dẫn xăng không bay được, cũng được phá hủy bằng hỏa tiễn M-72. Xác chết trung sĩ Miller cũng phải bỏ lại.
Sau khi đoàn quân đi được khoảng một cây số, họ mới biết được không có Perry. Một toán mười một quân nhân thuộc pháo đội D được lệnh quay trở lại tìm Perry và Miller (đã chết). Toán quân mười một người này về đến chu vi phòng thủ căn cứ, bị địch tấn công, không một người trở lại, xác của họ cũng biến mất cùng với Perry và Miller. Họ gồm có: binh nhất Thomas Blackman, hạ sĩ Joseph Cook, binh nhất Paul Czerwonka, hạ sĩ Thomas Fritsch, binh nhất Harry Hempel, hạ sĩ Raymond Heyne, hạ sĩ nhất Gerald King, binh nhất Robert Lopez, binh nhất William McGonigle, hạ sĩ Donald Mitchell, và hạ sĩ James Sargent. Những người sống sót còn lại được trực thăng cứu trong một bãi đất trống khoảng giữa căn cứ Ngok Tavak và trại LLĐB Khâm Đức lúc 7 giờ tối ngày 10 tháng Năm 1968.
Trong khi tiền đồn Ngok Tavak bị tấn công, quân đội Bắc Việt đồng thời pháo kích bằng súng cối và đại bác không dật, bắt đầu từ lúc 2 giờ 45 phút sáng vào trại LLĐB Khâm Đức. Những đợt pháo kích kéo dài cả ngày. Sư đoàn Americal đã đưa lên tăng cường trại LLĐB một tiểu đoàn thuộc lữ đoàn Bộ Binh Nhẹ 196, thêm vào đó một đại đội xung kích tiếp ứng Mike Force, nhưng tình hình trại LLĐB đã trở nên bết, binh sĩ xuống tinh thần, và quân đội Bắc Việt càng ngày càng gia tăng áp lực. Quân tăng viện được đưa lên nhưng không thấy có hiệu qủa.
Trước các đợt pháo kích, nhiều binh sĩ dân sự chiến đấu sợ hãi, bỏ phòng tuyến, chạy vào bên trong các hầm trú ẩn. Họ không còn tuân theo lệnh cấp chỉ huy nữa. Hệ thống chỉ huy trại LLĐB gần như rối loạn sau khi đại úy Silva đi xuống tiền đồn Ngok Tavak rồi bị thương, được trực thăng di tản. Đến buổi tối, trực thăng Hoa Kỳ đưa một đơn vị xung kích khác (đại đội 137) từ trại LLĐB Hà Thanh lên hoán đổi cho hai đại đội 11 và 12. Hai đại đội Mike Force này được đưa về Đà Nẵng, và sau đó... (vô kỷ luật, hèn nhát...)
Trời mờ sáng ngày 12 tháng Năm, trung đoàn 1, sư đoàn 2 Bắc Việt bắt đầu xiết chặt vòng vây trại LLĐB Khâm Đức. Khoảng 4 giờ 15 phút đến 4 giờ 30 phút sáng, địch quân bắt đầu các tiền đồn xung quanh căn cứ. Tiền đồn 7 bị tấn công, tràn ngập nhanh chóng, các tiền đồn 1, 3, 5 được quân thuộc lữ đoàn 196 vào trấn đóng, cầm cự được đến 9 giờ 30 phút.
Tiền đồn 1 có binh nhất Harry Coen, binh nhất Andrew Craven, trung sĩ Joseph Simpson và hạ sĩ Julius Long thuộc đại đội E, tiểu đoàn 2. Tiền đồn này bị tấn công từ lúc 4 giờ 15 phút sáng, binh nhất Coen và hạ sĩ Long xử dụng khẩu đại bác không dật 106 ly bắn chận địch, sau đó bị trúng đạn súng B-40. Những quân nhân sống sót từ tiền đồn này chạy về báo cáo, hầm của họ bị bắn xập bằng đại bác không dật ngay từ lúc đầu.
Binh nhất Craven cùng với hai đồng đội rút khỏi tiền đồn lúc 8 giờ 30 phút. Khi ra khỏi chừng 50 thước họ nghe được tiếng nói địch quân đã tràn vào tiền đồn. Đến khoảng 11 giờ sáng, họ về gần đến tuyến phòng thủ của tiểu đoàn, đụng phải địch quân. Craven là người đi đầu nổ súng, địch quân bắn trả lại trúng Craven mấy viên vào ngực, ngã gục. Hai người còn lại không đủ thì giờ lấy xác bạn, bỏ chạy. Lần cuối cùng họ trông thấy Craven, gục ngã trong vị thế nằm ngửa gần chu vị trại LLĐB.
Trong tiền đồn 2 có trung úy Frederick Ransbottom, hạ sĩ Maurice Moore, binh nhất Roy Williams, binh nhất Danny Widner, binh nhất William Skivington, binh nhất Imlay Widdison, binh nhất Lloyd và hạ sĩ nhất John Stuller. Những quân nhân sống sót trở về kể lại, có lẽ binh nhất Widdison và hạ sĩ nhất Stuller đã tử trận, tuy nhiên điều này không được kiểm chứng chứng xác.
Chỉ có tin tức về trung úy Ransbottom, hạ sĩ Moore, binh nhất Lloyd, và binh nhất Skivington. Trung úy Ransbottom liên lạc trên vô tuyến với binh nhất Widner, binh nhất Williams đang thủ trong căn hầm thứ ba, nói rằng, ông ta bắn gục mấy tên định xung phong vào căn hầm của ông ta.
Hạ sĩ Juan Jimenez, một khinh binh trong đại đội A, bị thương nặng ở lưng trong tuyến phòng thủ vì đạn súng cối. Anh ta được báo cáo tử trận bởi y sĩ tiểu đoàn vào lúc sáng sớm hôm 12 tháng Năm, sau đó được đem ra bãi trực thăng chờ di tản. Tuy nhiên vì bãi đáp nhỏ hẹp, nên chỉ ưu tiên cho những quân nhân bị thương nặng và xác của Jimenez bị bỏ quên...
Đến trưa, quân Bắc Việt mở đợt tấn công lớn vào căn cứ chính trại LLĐB. Đợt tấn công của địch bị chận lại bởi các phi tuần thả bom Napalm, và bom chống biển người (cluster) ngay trên lớp hàng rào phòng thủ cuối cùng của căn cứ. Sau đó, bộ tư lệnh sư đoàn Americal quyết định di tản trại LLĐB Khâm Đức ngay tức khắc.
Ngay khi lệnh di tản vừa được ban ra, tình hình trong căn cứ rất phức tạp, gần như hỗn loạn. (Bộ Binh, LLĐB, Dân Sự Chiến Đấu, Mike Force, vợ con dân sự chiến đấu). Chiếc trực thăng đầu tiên bay vào căn cứ trúng hỏa tiễn, nổ tung trên phi đạo làm binh sĩ công binh thuộc đại đội A, tiểu đoàn 70 công binh phải dùng xe ủi đất để khai thông phi đạo cho phi cơ đáp xuống. Thêm tám phi cơ đủ loại bị bắn rơi trong cuộc di tản.
Binh nhất Richard E. Sands thuộc đại đội A, tiểu đoàn 2, lữ đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ, được trực thăng Chinook CH-47 vào “bốc”. Chiếc trực thăng mang số (67-18475) lúc bay lên cao khoảng 1500, 1600 bộ (feet) bị trúng nhiều đạn đại liên 50. Sand ngồi gần xạ thủ đại liên nơi cửa bị trúng một viên vào đầu. Chiếc trực thăng bị hư hại, bốc cháy và phải đáp xuống khẩn cấp trong rừng. Trong lúc mọi người vội vã chạy ra khỏi chiếc trực thăng đang bốc cháy, bốn người và một y tá xác nhận Sands đã chết ngay tức khắc khi bị trúng viên đạn đại liên vào đầu. Xác của binh nhất Sands bị bỏ lại trong chiếc trực thăng đang bốc cháy, xắp nổ tung. Những người sống sót được một trực thăng khác đến cứu.
Vấn đề di tản gặp rất nhiều khó khăn, quân đội Bắc Việt đem súng phòng không vào bố trí trong các tiền đồn đã chiếm được. Khó chỉ huy binh sĩ dân sự chiến đấu (họ là người Thượng, chỉ nghe lệnh của “cấp chỉ huy” của họ. Một đại đội dân sự chiến đấu bị ép buộc bằng vũ khí ra nằm nơi giao thông hào vì sợ họ chạy vào gây hỗn loạn trên phi đạo.
Theo chương trình di tản, đại đội A, tiểu đoàn 1/46 được đi trước. Binh sĩ Bộ Binh xố đẩy thường dân, vợ con binh sĩ dân sự chiến đấu qua một bên để lên máy bay C-130. Nhiều binh sĩ khác cũng thuộc sư đoàn Americal cũng tràn lên. Điều này làm quân nhân LLĐB nổi nóng nhưng cũng chẳng làm được gì.
Phi hành đoàn trên chiếc C-130 mang số (60-0297) của Không Lực Hoa Kỳ gồm có: phi công trưởng, thiếu tá Bernard Bucher, trung sĩ cơ khí Frank Hepler, thiếu tá John McElroy phi hành (navigator), trung úy Steven Moreland phi công phụ, George Long vận chuyển, đại úy Warren Orr hành khách đi theo và một số thường dân đồng bào Thượng, vợ con binh sĩ dân sự chiến đấu.
Khi cất cánh chiếc máy bay bị trúng nhiều đạn phòng không. Máy bay quan sát (FAC) đang bao vùng báo cáo, chiếc C-130 nổ tung trên bầu trời, rơi xuống như qủa cầu lửa cách trại LLĐB khỏang một dặm. Tất cả mọi người trên chiếc phi cơ trúng đạn, kể cả phi hành đoàn đều tử nạn. Chiếc máy bay bị thiêu rụi nhanh chóng, không thâu hồi được tử thi.
Đại úy Orr là hành khách đi theo máy bay, quân đội Hoa Kỳ không xác nhận chắc chắn về ông ta. Có người kể lại trông thấy đại úy Orr nơi đuôi phi cơ, giúp đỡ thường dân lên máy bay. Một thường dân Việt Nam cho biết ông ta có trên máy bay, người này nhận diện đúng tấm ảnh của vị đại úy xấu số. Vấn đề tiếp cứu, thâu hồi tử thi nạn nhân đi trên chiếc máy bay, lúc đó không thể thực hiện được vì địch quân vẫn tiếp tục pháo kích vào trại LLĐB và phi đạo.
Sau khi lệnh di tản được ban ra, hạ sĩ Julius Long đang cùng với Coen và Simpson. Cả ba đều bị thương, tìm cách rút ra đến phi đạo chỉ cách đó khoảng 350 thước. Khi họ đến được phi đạo, chứng kiến chiếc C-30 cuối cùng cất cánh rời phi đạo. Binh nhất Coen, bị thương nơi bụng lúc đó hốt hoảng, vừa chạy trên phi đạo vừa bắn lung tung. Hạ sĩ Long cố gắng giữ anh ta lại nhưng không kịp, đó cũng là lần cuối cùng trông thấy anh ta. Sau đó Long cõng trung sĩ Simpson (bị thương nặng) lên một ngọn đồi gần đó, tạm trú qua đêm.
Đêm hôm đó, các phi tuần phản lực Hoa Kỳ được điều động lên đánh bom phá hủy phi đạo. Hạ sĩ Long bị trúng thêm hai mảnh bom nữa vào lưng và trung sĩ Simpson đã chết trong đêm. Sau đó hạ sĩ Long để xác đồng đội lại, tìm đường đi về căn cứ Chu Lai. Anh ta bị quân đội Bắc Việt bắt sống và được trả tự do vào năm 1973.
Lực Lượng Đặc Biệt là nhóm quân nhân vẫn giữ được kỷ luật, di tản cuối cùng. Khi chiếc trực thăng cuối cùng đến “bốc” họ, bay thoát lên trời xanh, quân đội Bắc Việt tràn vào căn cứ lúc 4 giờ 33 phút chiều ngày 12 tháng Năm 1968. Trại LLĐB Khâm Đức, tiền đồn cuối cùng của LLĐB ngoài vùng I chiến thuật bị tiêu hủy.
LLĐB Hoa Kỳ (MACV-SOG) mở hai cuộc hành quân xâm nhập, tìm kiếm, thâu hồi tử thi vào khu vực tiền đốn 1, tiền đồn 2 và những ngọn đồi xung quanh phi đạo Khâm Đức ngày 18 tháng Bẩy và ngày 17 tháng Tám năm 1970. Các toán biệt kích SOG tìm được, đem về mấy xác chết (đã rữa) của các quân nhân Hoa Kỳ, được phòng nhận diện xác nhận đó là xác của các quân nhân: hạ sĩ Bowers, binh nhất Lloyd, trung sĩ Sisk, binh nhất Guzman Rios, và trung sĩ Carter. Tuy nhiên quân đội Hoa Kỳ, các toán biệt kích SOG không thể trở lại tiếp tục tìm kiếm thêm vì tình hình chiến trường.
Vẫn còn nhiều quân nhân Hoa Kỳ bị báo cáo mất tích trong cuộc di tản trại LLĐB Khâm Đức. Người duy nhất bị bắt làm tù binh và được trả về là hạ sĩ Long.
Dallas, TX.
vđh
No comments:
Post a Comment