Ðầu năm 1969, hải cảng SihanoukVille nhộn nhịp qua lại với những chiếc tầu chở hàng đến từ những quốc gia Ðông Âu. Hàng đoàn xe vận tải của công ty Hak Ly chờ bốc hàng, sau đó dùng đường số 4 đến Nam Vang.Ðoàn xe rẽ vào một kho tiếp vận quân sự ở ngoại ô thành phố, giao đồ tiếp liệu cho các viên chức Bắc Việt Nam. Những kiện hàng bí mật chứa vũ khí, đạn dược được tiếp tục vận chuyển suốt đêm trên đường số 7, băng qua đồn điền cao-su đến vùng biên giới rậm rạp thuộc tỉnh Kompong Cham hay khu vực Lưỡi Câu. Khu vực này do đơn-vị Hậu-Cần 70 chăm sóc, gồm nhiều kho lương thực tiếp vận yểm trợ cho công-trường 5, 7 Cộng Sản Bắc Việt và công-trường 9 Việt-Cộng.
Tất cả vũ-khí, đạn dược vào đến lãnh thổ quân-khu III và IV đều qua ngả Cambodia. Sao hai mươi mốt tháng bí mật xâm nhập, đơn vị SOG đã khám phá ra nhiều mật khu chứa tới 200 ngàn quân CSBV và Việt-Cộng. Hành quân xâm nhập vào đất Miên có tên là Daniel Boon, đến mùa thu năm 1969 cải danh thành Salem House để bảo mật. Sự hiện diện của quân đội Bắc Việt được xác định ngày 2
tháng Ba khi một toán biệt kích SOG thuộc bộ chỉ-huy Nam (CCS) bị địch phát giác, truy kích kết quả chết hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ là Trung-Sĩ William Evans và Micheal May. Xác của họ không tìm ra.
Tổng thống Hoa-Kỳ Johnson ra lệnh cho pháo-đài bay B-52 bí mật thẳ bom khu vực Lưỡi Câu gây ra 73 tiếng nổ phụ. Chỉ có viên phi công và sĩquan navigator biệt mục tiêu của trận ném bom. Một tháng sau, tổng thống Johnson ra lệnh cho B-52 thả bom trên mục tiêu do tướng Abram đềnghị. Trung Ương Cục Miền Nam (COSVN) do một hàng binh chỉ điểm. Mục tiêu này cách Memot 14 dặm về hướng
đông nam, trên đất Cambodia, cách biên giới một dặm. Trận đánh bom này xẩy ra ngày 24 tháng Tư.
Chuẩn Tướng Phillip B. Davision trưởng phòng Nhì cơ-quan MACV yêu cầu đơn vị SOG cho một đơn vị nhẩy vào thanh toán chiến trường sau khi trận ném bom B-52 chấm dứt. Ðại-Tá Cavanaugh ra lệnh cho bộ chỉ huy Nam (CCS) chuẩn bị cho một đại đội Hatchet Force nhẩy vào.
Trong khi đó nơi bộ chỉ huy Nam, Nhiệm vụ được giao cho 'Mad Dog Shriver' một huyền thoại sống. Taị căn cứ Fort Braggs (bộ chỉ huyLLÐB/HK) không ai biết đến đơn vị SOG cũng như hành quân Daniel Boon hoặc Salem House, nhưng đều biết Trung-Sĩ Nhất Jerry Shriver mà đàiHà-Nội gọi là 'Chó Ðiên'. 'Mad Dog' Shriver cũng là người phát ra câu nói nổi tiếng trong lịch sử đơn vị SOG. Toán của anh ta bị địch bao vây, phi cơ điều không FAC cho Shriver biết 'Tình hình coi bộ rất xấu', anh ta trả lời tỉnh bơ 'Không, không có gì đâu. Tôi phải đánh nhau với tụi nó tại chỗ tôi muốn - (Bị bao vây cứng bên trong lòng địch)'.
Sáng ngày 24 tháng Tư năm 1969, trong khi các phi cơ B52 cất cánh từ đảo Guam, đại đội xung-kích Hatchet Force thuộc bộ chỉ huy Nam (CCS) tập họp trên phi đạo Quản-Lợicách bộ chỉ huy Trung-Ương Cục Miền Nam khoảng 20dặm. Ðại đội xung kích này có nhiệm vụ vào thanh toán chiến trường, sau khi B-52 ném bom.
Năm chiếc trực thăng Green Hornet chỉ đem được hai trung đội vào vùng hành quân.Trung đội 3 do Thiếu-Úy Bob Killebrew phải ở lại phi trường Quản-Lợi. Trung đội 1 của Trung Úy Walter Marcantel và trung đội 2 doTrung-Úy Greg Harrigan nhẩyxuống bộ chỉ huy Trung Ương Cục. Khi hai trung đội lên máy bay, các pháo đài bay B52 sửa lại đội hình lần cuối trước khi đến mục tiêu. Trận ném bom vừa xong, các trực thăng đáp xuống thả hai trung-đội xung kích rồi bay đi.
Rồi thì súng đạn vang dội nổ khắp nơi, các biệt-kích quân vội nhào xuống các hố bom hoặc nằm sau những thân cây mới bị B-52 đốn ngã để tránh đạn. Nằm cuối đoàn quân, Shriver gọi máy cho biết có khẩu đại liên của địch phiá trước bên trái. Khẩu này trấn áp không cho toán của Shriver ngóc đầu lên được,trong khi đó Ðại-úy Cahill, Trung-úy Marcantel và y-tá Trung-Sĩ Ernest Jamison báo cáo cũng bị địch đàn áp. Jamison chạy ra để cứu người bị thương bị bắn gục tại chỗ.
Không ai có thể di chuyển được. Nổi điên, Shriver cùng một biệt kích quân Thượng chạy lên để thanh toán khẩu đại liên. Cả hai biến mất, không tìm ra xác. Jamison nằm chết cách hố bom chừngvài thước, Ðại-úy Cahill nghe từng tràng đạn AK, B-40 của địch cầy nát mặt đất, khi ông ta ngóc đầu lên, một viên AK xuyên qua miệng, đi ngược lên trên làm hư một mắt. Bị thương nặng, ông ta gục xuống. Trong một hố bom khác, Trung-Úy Harrigan đang điều khiển trực thăng võ trang bắn rocket và minigun cản những đợt xung phong của địch. Harrigan báo cáo đã thiệt hại hơn nửa trung đội chết hoặc bị thương. Nhờ bìnhtĩnh điều không, Trung-Úy Harrigan cầm cự được khoảng 45 phút, sau đó trúng đạn tử trận.
Ðại-Úy O'Rourke bay trên đầu muốn xuống nhưng chiếc trực thăng chở ông ta không qua khỏi màn lưới lửa của địch quân. Trung-Tá Earl Trabue, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy Nam cũng không xuống được, biết phe ta đang bị tàn sát ở dưới họ đành bó tay. Cuối cùng chỉ còn Trung-Úy Marcantel còn sống, anh ta điều khiển luôn mất chiếc B57 Canberra của Úc-Ðại-Lợi thuộc phi-đoàn số 2 cất cánh
từ Phan Rang vào đánh giải vây cho trực thăng vào đem rađược Trung-Úy Marcantel đã bị thương cùng chín biệt kích quân Thượng. Ba chiếc khác vào đem ra được thêm 15 quân nhân bị thương cùng xácTrung-Úy Harrigan. Cuộc hành quân coi như chấm dứtÐại-Tá Cavanaugh đến thăm hỏi các quân nhân sống sót, sau đó nói với Tướng Davidson 'Nếu tôi biết kết qủa sẽ như vậy, tôi sẽ không đưa họ vào chỗ chết'. Tướng Davidson nhận trách nhiệm về chuyến hành quân vào bộchỉ huy Trung Ương Cục MiềnNam. Trung Úy Marcantel bình phục, ông ta chết khoảng sáu tháng sau trong một chuyến nhẩy dù trong căn cứ Fort Davens, tiểu bang Massachusetts. Ðại-Úy Cahill giải ngũ vì vết thương. Xác Ernest Jamison thâu hồi được ít lâu sau. 'Mad Dog' Shriver cho đến nay vẫn không tìm ra xác.
Ðược báo cáo về số tổn thất của đơn vị SOG, Tướng Abrams ra lệnh cho cơ quan MACV phân tích về sự thiệt hại của đơn vị SOG trong vòng hai tháng đầu năm 1969. Kết quả 15 quân biệt-kích Mũ-Xanh Hoa-Kỳ chết hoặc mất tích, 68 bị thương và mườitrực thăng bị rớt. Ðổi lại, biệt kích SOG tiêu hủy 13 xe vận tải Molotova, giết 1400 địch quân, chỉ điểm mục tiêu cho phi cơ đánh bom gây 455 tiếng nổ phụ.
Tổng thống Nixon ra lệnh cho B-52 thả bom bí mật lần thứ ba trên lãnh thổ Cambodia đầu tháng Năm. Lần này trên nhiều mục tiêu trong đó co căn cứ của trung-đoàn 27 Cộng-Sản Bắc Việt. Toán biệt-kích Illinois xâm nhập vào mục tiêu, phối kiểm trận đánh bom. Toán trưởng là Trung-Sĩ Ben Thompson, toán phó là Trung-Sĩ George Bacon III xuống mục tiêu hai mươi phút khi trận đánh bom chấm dứt. Chưa được nửa ngày, toán biệt kích vừa bắn vừa chạy lấy thân, điều này chứng tỏ bom thả trên mục tiêu có nhiều địch quân. Vài tháng sau, ngày 25 tháng Tám, toán biệt kích Florida do Trung-Sĩ Ken Worthley làm trưởng toán xâm nhập vùng đông bắc Cambodia, nơi tình nghi có trung-đoàn 66 CSBV. Toán này có thêm Trung-Sĩ Bob Garcia, Dale Hanson và bốn biệt-kích quân Việt-Nam, tổng cộng bẩy quân nhân.
Họ xuống bãi đáp an toàn vào lúc trưa và bắt đầu leo lên một dốc núi cao. Ðến hai giờ chiều, toán biệt kích đang ngồi nghỉ trên một sườn núi, Garcia trông thấy hai lính Bắc Việt đang dò tìm dấu vết của họ để lại. Anh ta bắn gục một địch quân, rồi thì đạn AK nổ tứ phiá, thì ra cả một đại đội lính Bắc Việt đang dàn quân ra bao vây toán biệt kích.
Trong khi chạy, người hiệu thính viên Dale Hanson trúng một viên AK mất ngón giữa bàn tay trái, vừa chạy vừa băng bó, Garcia phải thay anhta mang máy. Ðến gần tối, trưởng toán Worthley quyết định trốn trong một thung lũng qua đêm, họ đã rải hơi cay mắt để đánh lạc hướng chó. Sáng sớm hôm sau, họ băng qua khu rừng, khoảng 9:30, toán đang di chuyển trên một sườn đồi bỗng người dẫn đạo
ra dấu im-lặng. Worthley bò tới trước trông thấy hai lính Bắc Việt nơi một con đường mòn. Họ khai hoả giết cả hai, biệt kích quân hướng đạo bị thương nơi tay. Quần áo cho thấy một địch quân là cấp chỉ huy, đeo súng lục có thể mang cấp bậc đại-tá, người kia có lẽ là cận vệ. Toán biệt kích lấy được túi đeo da có đựng tài liệu của viên sĩ quan BắcViệt. Ðơn vị SOG sau khi xem xét tài liệu cho biết toán
Florida đã giết được một sĩ quan tình báo cao cấp của địch.
Trên đường chạy, trưởng toán Worthley trúng một viên AK vào cổ chết tức khắc, còn tất cả đều được trực thăng thả dây cấy cứu kéo lên. Khi về đếnKontum, một chiếc 'Chim Ðen' C-130 của đơn vị SOG đến đem chiếc túi da của viên sĩ quan Bắc Việt về Saigon. Tài liệu trong túi da cho biết một danh sách điệp viên nằm vùng của địch. Tài liệu này cũng xác nhận về chuyện Thái KhắcChuyên bị Ðại Tá Robert Rheault cựu chỉ huy trưởngLiên Ðoàn 5 LLÐB/HK ra lệnh hành quyết vào tháng Năm1969. Vài tháng sau Ðại-Tá Rheault được tự do, ông ta cũng không biết nhờ công của toán biệt kích Florida.
Trong một chuyến đàu tiên xâm nhập Cambodia năm 1970, toán biệt kích Vermont trên Kontum nhẩy xuống khu rừng rậm rạp trong tỉnh Ratanakiri ngày 5 tháng Giêng tìm kiếm căn cứ binh trạm của địch. Trưởng toán là Trung-Sĩ Franklin 'Doug' Miller, người biệt kích hướng đạo dẫm lên một sợi dây giăng ngang đường, tiếp theo là một tiếng nổ lớn làm bốn biệt kích quân bị thương. Trong phút chốc một nửa toán viên bất khiển dụng và địch đã phát giác sự hiện diện của toán. Miller phụ giúp băng bó cho những người bị thương rồi ra lệnh cho toán phó dẫn toán lên đồi lập vị trí phòng thủ, còn anh ta ở lại, đương đầu với địch quân.
Vừa bắn cầm chừng vừa lui về chỗ phòng thủ, Miller liên lạc yêu cầu triệt xuất toán, sau đó dẫn toán di chuyển đến bãi trực thăng nơi một hố bom lớn cách đó khoảng 175 thước. Khi chiếc trực thăng định đáp xuống bốc toán biệt kích, địch bắn lên xối xả đuổi chiếc trực thăng bay ra chỗ khác rồi tiếp tục tấn công toán Vermont. Toán biệt kích núp trong hố bom chống trả quyết liệt mặc dầu tất cả đều bị thương, kể cả trưởng toán Miller trúng đạn AK nơi tay trái. Anh ta vẫn tiếp tục hướng dẫn toán đến một bãi đáp trực thăng khác, sau đó được một toán cấp cứu Bright Light đem ra an toàn. Miller đem về cho đơn vị SOG huychương danh dự thứ bẩy.
Vùng đông bắc Cambodia rất 'nóng' (nguy-hiểm). Ngày 9 tháng Giêng, một toán biệt kích thuộc bộ chỉ huy Nam do Trung-Sĩ Nhất Larry Barlett làm trưởng toán, toán phó là Trung-Sĩ Richard Thomas trên đường di chuyển đến bãi đáp cách nơi toán Vermont bị tấn công khoảng 30 dặm về hướng nam. Toán này bất ngờ bị một đơn vị địch tấn công chết cả hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ. Toán cấp cứu Bright Light vào chết thêm một biệt kích quân Thượng trước khi đem xác họ ra.
Ngày 11 tháng Ba năm 1970, đảo chính bên Cambodia, hàng ngàn người Miên đập phá toà đại sứ Bắc Việt và Việt-Cộng ở Nam Vang, Hoàng-Tử Sihanouk chạy qua tỵ nạn bên Pháp. Ba hôm sau, toán biệtkích Pennsylvania do Trung Úy Jerry Poole làm trưởng toán xâm nhập vùng rừng núi trong ttỉnh Ratanakiri. Toán này có thêm hai quân nhân Hoa Kỳ là Trung Sĩ Nhất John Boronski, Trung-Sĩ Gary Harned. Sau ba ngày lẩn trốn, họ được một trực thăng vào bốc. Khi chiếc báy may bay lên cao khoảng 100 bộ, trúng một quả B-40 nổ tung, tất cả quân nhân trên máy bay gồm toán biệt kích Pennsylvania cùng phi hànhđoàn gồm Ðại úy Michael O'Donnell, Chuẩn Úy John Hosken, Rudy Becerra, và Berman Gande Jr. đều thiệt mạng. Không thâu hồi xác họ được.
Tin tức tình báo cho biết quân Bắc Việt đang mở rộng vùng kiểm soát trên đất Miên về phiá bắc và tây. Họ lấy tỉnh Svay Riêng trong vòng mấy ngày, trong khi đơn vị Bắc Việt khác lấn xuống phiá nam đuổi quân đội Cambodia ra khỏi vùng Mỏ Vẹt. Trong vòng hai tuần lễ, quân đội Bắc Việt chiếm được hai trong số mười bẩy tỉnh của Miên và bao vây thêm năm tỉnh khác, yểm trợcho quân Khmer Ðỏ. Chính phủ mới bên Miên báo động cho thế giới biết về sự xâm lăng của quân đội Bắc Việt, và
Hoa Kỳ bí mật gửi sang Miên 3000 khẩu AK.
Trong trung tâm nước Cambodia, ba Trung-Sĩ Troy Gilley, Ben Lyons, và Charles Chapin bí mật xâm nhập để phối kiểm tin tình báo về một binh trạm dành cho sĩ quan cao cấp Bắc Việt. Họ được bốc ra và ba hôm sau thả xuống một nơi gần những chòi dành cho cấp lớn của địch. Họ gặp lính Bắc Việt di chuyẻn cùng với voi chở đồ. Quân biệt kích phục kích đánh tơi tả, sau đó gọi trực thăng lên bốc về an toàn. Troy Gilley về Saigon báo cáo về chuyến đi, anh ta biết thêm đơn vị Bắc Việt có voi tải đồ bị chận đánh có nhiệm vụ hộ tống hai tướng lãnh Bắc Việt và cả hai đều chết trong trận phục kích vừa qua. Khi bắt đầu trận đánh qua đất Miên do Quân-Lực VNCH và Hoa-Kỳ đảm trách, đơn vị SOG ra lệnh đưa mấy toán biệtkích ngoài Ðà-Nẵng và trên Kontum vào Ban Mê Thuột trợ lực cho bộ chỉ huy Nam (CCS). Sau đó, ngày 30 tháng Sáu, đơn vị SOG chuyển năm toán biệt kích ra bộ chỉ huy Bắc, năm toán khác lên bộ chỉ huy Trung, giao đất Miên hoàn toàn do QL/VNCH đảm trách.
A-244 Dak Pek
Tất cả vũ-khí, đạn dược vào đến lãnh thổ quân-khu III và IV đều qua ngả Cambodia. Sao hai mươi mốt tháng bí mật xâm nhập, đơn vị SOG đã khám phá ra nhiều mật khu chứa tới 200 ngàn quân CSBV và Việt-Cộng. Hành quân xâm nhập vào đất Miên có tên là Daniel Boon, đến mùa thu năm 1969 cải danh thành Salem House để bảo mật. Sự hiện diện của quân đội Bắc Việt được xác định ngày 2
tháng Ba khi một toán biệt kích SOG thuộc bộ chỉ-huy Nam (CCS) bị địch phát giác, truy kích kết quả chết hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ là Trung-Sĩ William Evans và Micheal May. Xác của họ không tìm ra.
Tổng thống Hoa-Kỳ Johnson ra lệnh cho pháo-đài bay B-52 bí mật thẳ bom khu vực Lưỡi Câu gây ra 73 tiếng nổ phụ. Chỉ có viên phi công và sĩquan navigator biệt mục tiêu của trận ném bom. Một tháng sau, tổng thống Johnson ra lệnh cho B-52 thả bom trên mục tiêu do tướng Abram đềnghị. Trung Ương Cục Miền Nam (COSVN) do một hàng binh chỉ điểm. Mục tiêu này cách Memot 14 dặm về hướng
đông nam, trên đất Cambodia, cách biên giới một dặm. Trận đánh bom này xẩy ra ngày 24 tháng Tư.
Chuẩn Tướng Phillip B. Davision trưởng phòng Nhì cơ-quan MACV yêu cầu đơn vị SOG cho một đơn vị nhẩy vào thanh toán chiến trường sau khi trận ném bom B-52 chấm dứt. Ðại-Tá Cavanaugh ra lệnh cho bộ chỉ huy Nam (CCS) chuẩn bị cho một đại đội Hatchet Force nhẩy vào.
Trong khi đó nơi bộ chỉ huy Nam, Nhiệm vụ được giao cho 'Mad Dog Shriver' một huyền thoại sống. Taị căn cứ Fort Braggs (bộ chỉ huyLLÐB/HK) không ai biết đến đơn vị SOG cũng như hành quân Daniel Boon hoặc Salem House, nhưng đều biết Trung-Sĩ Nhất Jerry Shriver mà đàiHà-Nội gọi là 'Chó Ðiên'. 'Mad Dog' Shriver cũng là người phát ra câu nói nổi tiếng trong lịch sử đơn vị SOG. Toán của anh ta bị địch bao vây, phi cơ điều không FAC cho Shriver biết 'Tình hình coi bộ rất xấu', anh ta trả lời tỉnh bơ 'Không, không có gì đâu. Tôi phải đánh nhau với tụi nó tại chỗ tôi muốn - (Bị bao vây cứng bên trong lòng địch)'.
Sáng ngày 24 tháng Tư năm 1969, trong khi các phi cơ B52 cất cánh từ đảo Guam, đại đội xung-kích Hatchet Force thuộc bộ chỉ huy Nam (CCS) tập họp trên phi đạo Quản-Lợicách bộ chỉ huy Trung-Ương Cục Miền Nam khoảng 20dặm. Ðại đội xung kích này có nhiệm vụ vào thanh toán chiến trường, sau khi B-52 ném bom.
Năm chiếc trực thăng Green Hornet chỉ đem được hai trung đội vào vùng hành quân.Trung đội 3 do Thiếu-Úy Bob Killebrew phải ở lại phi trường Quản-Lợi. Trung đội 1 của Trung Úy Walter Marcantel và trung đội 2 doTrung-Úy Greg Harrigan nhẩyxuống bộ chỉ huy Trung Ương Cục. Khi hai trung đội lên máy bay, các pháo đài bay B52 sửa lại đội hình lần cuối trước khi đến mục tiêu. Trận ném bom vừa xong, các trực thăng đáp xuống thả hai trung-đội xung kích rồi bay đi.
Rồi thì súng đạn vang dội nổ khắp nơi, các biệt-kích quân vội nhào xuống các hố bom hoặc nằm sau những thân cây mới bị B-52 đốn ngã để tránh đạn. Nằm cuối đoàn quân, Shriver gọi máy cho biết có khẩu đại liên của địch phiá trước bên trái. Khẩu này trấn áp không cho toán của Shriver ngóc đầu lên được,trong khi đó Ðại-úy Cahill, Trung-úy Marcantel và y-tá Trung-Sĩ Ernest Jamison báo cáo cũng bị địch đàn áp. Jamison chạy ra để cứu người bị thương bị bắn gục tại chỗ.
Không ai có thể di chuyển được. Nổi điên, Shriver cùng một biệt kích quân Thượng chạy lên để thanh toán khẩu đại liên. Cả hai biến mất, không tìm ra xác. Jamison nằm chết cách hố bom chừngvài thước, Ðại-úy Cahill nghe từng tràng đạn AK, B-40 của địch cầy nát mặt đất, khi ông ta ngóc đầu lên, một viên AK xuyên qua miệng, đi ngược lên trên làm hư một mắt. Bị thương nặng, ông ta gục xuống. Trong một hố bom khác, Trung-Úy Harrigan đang điều khiển trực thăng võ trang bắn rocket và minigun cản những đợt xung phong của địch. Harrigan báo cáo đã thiệt hại hơn nửa trung đội chết hoặc bị thương. Nhờ bìnhtĩnh điều không, Trung-Úy Harrigan cầm cự được khoảng 45 phút, sau đó trúng đạn tử trận.
Ðại-Úy O'Rourke bay trên đầu muốn xuống nhưng chiếc trực thăng chở ông ta không qua khỏi màn lưới lửa của địch quân. Trung-Tá Earl Trabue, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy Nam cũng không xuống được, biết phe ta đang bị tàn sát ở dưới họ đành bó tay. Cuối cùng chỉ còn Trung-Úy Marcantel còn sống, anh ta điều khiển luôn mất chiếc B57 Canberra của Úc-Ðại-Lợi thuộc phi-đoàn số 2 cất cánh
từ Phan Rang vào đánh giải vây cho trực thăng vào đem rađược Trung-Úy Marcantel đã bị thương cùng chín biệt kích quân Thượng. Ba chiếc khác vào đem ra được thêm 15 quân nhân bị thương cùng xácTrung-Úy Harrigan. Cuộc hành quân coi như chấm dứtÐại-Tá Cavanaugh đến thăm hỏi các quân nhân sống sót, sau đó nói với Tướng Davidson 'Nếu tôi biết kết qủa sẽ như vậy, tôi sẽ không đưa họ vào chỗ chết'. Tướng Davidson nhận trách nhiệm về chuyến hành quân vào bộchỉ huy Trung Ương Cục MiềnNam. Trung Úy Marcantel bình phục, ông ta chết khoảng sáu tháng sau trong một chuyến nhẩy dù trong căn cứ Fort Davens, tiểu bang Massachusetts. Ðại-Úy Cahill giải ngũ vì vết thương. Xác Ernest Jamison thâu hồi được ít lâu sau. 'Mad Dog' Shriver cho đến nay vẫn không tìm ra xác.
Ðược báo cáo về số tổn thất của đơn vị SOG, Tướng Abrams ra lệnh cho cơ quan MACV phân tích về sự thiệt hại của đơn vị SOG trong vòng hai tháng đầu năm 1969. Kết quả 15 quân biệt-kích Mũ-Xanh Hoa-Kỳ chết hoặc mất tích, 68 bị thương và mườitrực thăng bị rớt. Ðổi lại, biệt kích SOG tiêu hủy 13 xe vận tải Molotova, giết 1400 địch quân, chỉ điểm mục tiêu cho phi cơ đánh bom gây 455 tiếng nổ phụ.
Tổng thống Nixon ra lệnh cho B-52 thả bom bí mật lần thứ ba trên lãnh thổ Cambodia đầu tháng Năm. Lần này trên nhiều mục tiêu trong đó co căn cứ của trung-đoàn 27 Cộng-Sản Bắc Việt. Toán biệt-kích Illinois xâm nhập vào mục tiêu, phối kiểm trận đánh bom. Toán trưởng là Trung-Sĩ Ben Thompson, toán phó là Trung-Sĩ George Bacon III xuống mục tiêu hai mươi phút khi trận đánh bom chấm dứt. Chưa được nửa ngày, toán biệt kích vừa bắn vừa chạy lấy thân, điều này chứng tỏ bom thả trên mục tiêu có nhiều địch quân. Vài tháng sau, ngày 25 tháng Tám, toán biệt kích Florida do Trung-Sĩ Ken Worthley làm trưởng toán xâm nhập vùng đông bắc Cambodia, nơi tình nghi có trung-đoàn 66 CSBV. Toán này có thêm Trung-Sĩ Bob Garcia, Dale Hanson và bốn biệt-kích quân Việt-Nam, tổng cộng bẩy quân nhân.
Họ xuống bãi đáp an toàn vào lúc trưa và bắt đầu leo lên một dốc núi cao. Ðến hai giờ chiều, toán biệt kích đang ngồi nghỉ trên một sườn núi, Garcia trông thấy hai lính Bắc Việt đang dò tìm dấu vết của họ để lại. Anh ta bắn gục một địch quân, rồi thì đạn AK nổ tứ phiá, thì ra cả một đại đội lính Bắc Việt đang dàn quân ra bao vây toán biệt kích.
Trong khi chạy, người hiệu thính viên Dale Hanson trúng một viên AK mất ngón giữa bàn tay trái, vừa chạy vừa băng bó, Garcia phải thay anhta mang máy. Ðến gần tối, trưởng toán Worthley quyết định trốn trong một thung lũng qua đêm, họ đã rải hơi cay mắt để đánh lạc hướng chó. Sáng sớm hôm sau, họ băng qua khu rừng, khoảng 9:30, toán đang di chuyển trên một sườn đồi bỗng người dẫn đạo
ra dấu im-lặng. Worthley bò tới trước trông thấy hai lính Bắc Việt nơi một con đường mòn. Họ khai hoả giết cả hai, biệt kích quân hướng đạo bị thương nơi tay. Quần áo cho thấy một địch quân là cấp chỉ huy, đeo súng lục có thể mang cấp bậc đại-tá, người kia có lẽ là cận vệ. Toán biệt kích lấy được túi đeo da có đựng tài liệu của viên sĩ quan BắcViệt. Ðơn vị SOG sau khi xem xét tài liệu cho biết toán
Florida đã giết được một sĩ quan tình báo cao cấp của địch.
Trên đường chạy, trưởng toán Worthley trúng một viên AK vào cổ chết tức khắc, còn tất cả đều được trực thăng thả dây cấy cứu kéo lên. Khi về đếnKontum, một chiếc 'Chim Ðen' C-130 của đơn vị SOG đến đem chiếc túi da của viên sĩ quan Bắc Việt về Saigon. Tài liệu trong túi da cho biết một danh sách điệp viên nằm vùng của địch. Tài liệu này cũng xác nhận về chuyện Thái KhắcChuyên bị Ðại Tá Robert Rheault cựu chỉ huy trưởngLiên Ðoàn 5 LLÐB/HK ra lệnh hành quyết vào tháng Năm1969. Vài tháng sau Ðại-Tá Rheault được tự do, ông ta cũng không biết nhờ công của toán biệt kích Florida.
Trong một chuyến đàu tiên xâm nhập Cambodia năm 1970, toán biệt kích Vermont trên Kontum nhẩy xuống khu rừng rậm rạp trong tỉnh Ratanakiri ngày 5 tháng Giêng tìm kiếm căn cứ binh trạm của địch. Trưởng toán là Trung-Sĩ Franklin 'Doug' Miller, người biệt kích hướng đạo dẫm lên một sợi dây giăng ngang đường, tiếp theo là một tiếng nổ lớn làm bốn biệt kích quân bị thương. Trong phút chốc một nửa toán viên bất khiển dụng và địch đã phát giác sự hiện diện của toán. Miller phụ giúp băng bó cho những người bị thương rồi ra lệnh cho toán phó dẫn toán lên đồi lập vị trí phòng thủ, còn anh ta ở lại, đương đầu với địch quân.
Vừa bắn cầm chừng vừa lui về chỗ phòng thủ, Miller liên lạc yêu cầu triệt xuất toán, sau đó dẫn toán di chuyển đến bãi trực thăng nơi một hố bom lớn cách đó khoảng 175 thước. Khi chiếc trực thăng định đáp xuống bốc toán biệt kích, địch bắn lên xối xả đuổi chiếc trực thăng bay ra chỗ khác rồi tiếp tục tấn công toán Vermont. Toán biệt kích núp trong hố bom chống trả quyết liệt mặc dầu tất cả đều bị thương, kể cả trưởng toán Miller trúng đạn AK nơi tay trái. Anh ta vẫn tiếp tục hướng dẫn toán đến một bãi đáp trực thăng khác, sau đó được một toán cấp cứu Bright Light đem ra an toàn. Miller đem về cho đơn vị SOG huychương danh dự thứ bẩy.
Vùng đông bắc Cambodia rất 'nóng' (nguy-hiểm). Ngày 9 tháng Giêng, một toán biệt kích thuộc bộ chỉ huy Nam do Trung-Sĩ Nhất Larry Barlett làm trưởng toán, toán phó là Trung-Sĩ Richard Thomas trên đường di chuyển đến bãi đáp cách nơi toán Vermont bị tấn công khoảng 30 dặm về hướng nam. Toán này bất ngờ bị một đơn vị địch tấn công chết cả hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ. Toán cấp cứu Bright Light vào chết thêm một biệt kích quân Thượng trước khi đem xác họ ra.
Ngày 11 tháng Ba năm 1970, đảo chính bên Cambodia, hàng ngàn người Miên đập phá toà đại sứ Bắc Việt và Việt-Cộng ở Nam Vang, Hoàng-Tử Sihanouk chạy qua tỵ nạn bên Pháp. Ba hôm sau, toán biệtkích Pennsylvania do Trung Úy Jerry Poole làm trưởng toán xâm nhập vùng rừng núi trong ttỉnh Ratanakiri. Toán này có thêm hai quân nhân Hoa Kỳ là Trung Sĩ Nhất John Boronski, Trung-Sĩ Gary Harned. Sau ba ngày lẩn trốn, họ được một trực thăng vào bốc. Khi chiếc báy may bay lên cao khoảng 100 bộ, trúng một quả B-40 nổ tung, tất cả quân nhân trên máy bay gồm toán biệt kích Pennsylvania cùng phi hànhđoàn gồm Ðại úy Michael O'Donnell, Chuẩn Úy John Hosken, Rudy Becerra, và Berman Gande Jr. đều thiệt mạng. Không thâu hồi xác họ được.
Tin tức tình báo cho biết quân Bắc Việt đang mở rộng vùng kiểm soát trên đất Miên về phiá bắc và tây. Họ lấy tỉnh Svay Riêng trong vòng mấy ngày, trong khi đơn vị Bắc Việt khác lấn xuống phiá nam đuổi quân đội Cambodia ra khỏi vùng Mỏ Vẹt. Trong vòng hai tuần lễ, quân đội Bắc Việt chiếm được hai trong số mười bẩy tỉnh của Miên và bao vây thêm năm tỉnh khác, yểm trợcho quân Khmer Ðỏ. Chính phủ mới bên Miên báo động cho thế giới biết về sự xâm lăng của quân đội Bắc Việt, và
Hoa Kỳ bí mật gửi sang Miên 3000 khẩu AK.
Trong trung tâm nước Cambodia, ba Trung-Sĩ Troy Gilley, Ben Lyons, và Charles Chapin bí mật xâm nhập để phối kiểm tin tình báo về một binh trạm dành cho sĩ quan cao cấp Bắc Việt. Họ được bốc ra và ba hôm sau thả xuống một nơi gần những chòi dành cho cấp lớn của địch. Họ gặp lính Bắc Việt di chuyẻn cùng với voi chở đồ. Quân biệt kích phục kích đánh tơi tả, sau đó gọi trực thăng lên bốc về an toàn. Troy Gilley về Saigon báo cáo về chuyến đi, anh ta biết thêm đơn vị Bắc Việt có voi tải đồ bị chận đánh có nhiệm vụ hộ tống hai tướng lãnh Bắc Việt và cả hai đều chết trong trận phục kích vừa qua. Khi bắt đầu trận đánh qua đất Miên do Quân-Lực VNCH và Hoa-Kỳ đảm trách, đơn vị SOG ra lệnh đưa mấy toán biệtkích ngoài Ðà-Nẵng và trên Kontum vào Ban Mê Thuột trợ lực cho bộ chỉ huy Nam (CCS). Sau đó, ngày 30 tháng Sáu, đơn vị SOG chuyển năm toán biệt kích ra bộ chỉ huy Bắc, năm toán khác lên bộ chỉ huy Trung, giao đất Miên hoàn toàn do QL/VNCH đảm trách.
A-244 Dak Pek
No comments:
Post a Comment