25. 25  
|  | 
Sáng  hôm sau tôi vừa mở mắt ra là thấy ông Chín lom khom xếp những cành lá trên  sàn.
Tôi  nói ngay:
- Nếu  không có múa Hoa Champa hồi hôm thì lính ngủ không được đấy ông Chín ạ! ..
- Tại  sao vậy? – Ông Chín chống nạnh lên và hất hàm hỏi tôi – Tại sao không ngủ  được?
Tôi  bình tĩnh đáp:
- Tại  vì bụng đói quá mà. Nước suối không xoa dịu được cơn đói chứ sao! Phải nhờ tới  hoa Champa.
Ông  Chín nói một cách thản nhiên:
- Hoa  Champa không uống được.
- Ông  Chín quên rằng nghe hát thì đỡ đói sao?
-  Phải rồi, nhưng máy bay quan trọng hơn.
-  Nhưng nó chỉ quan trọng khi nó có thật kia. Còn đằng này không có mà quan trọng  cái gì?
Ông  Chín đứng lặng người ra rồi cất tiếng cười đắc chí với kết quả mà ông đạt được  đêm qua.
Đến  trưa thì có lệnh hành quân. Đường đã xoi thủng. Trong giây lát thấy ba-lô lục  đục trên lưng. Soong chảo, súng ống lớp vác lớp gánh lớp khiêng, đụng khua nhau  lộp cộp lạc cạc lèng xèng không biết có thể so sánh nó với cảnh tượng nào trong  cuộc sống. Chợ không phải chợ, hội không phải hội, liên hoan không phải liên  hoan.
Tôi  bất chợt nhìn thấy trong đám lính một anh bạn quen. (Hẳn bạn đọc còn nhớ “ông  già Noël ở nơi có cái đế cối 82 lót đường).
Không  biết bao lâu rồi tôi không gặp lại anh ta. Anh ta gầy đến mức độ không còn gầy  được nữa. Gương mặt anh ta không còn thịt chỉ còn đôi gò má nhăn nheo, nhô hẳn  lên và cặp mắt sâu như hai cái giếng cạn. Anh ta choắt lại như một miếng khô  sấy.
Không  hiểu lý do nào anh ta lại treo và hôm nay vẫn còn treo chiếc khăn lông nhỏ dưới  quai nón làm cho anh ta giống ông già có bộ râu vĩ đại. Tay anh ta mỗi bên vẫn  cầm một chiếc gậy như cặp chân giả chắp vào cặp chân thiệt đã kiệt lực từ lâu.  Trông anh ta đi, tôi muốn khóc. Bao giờ anh ta mới tới nơi? Vậy mà không chịu  nằm lại dọc đường mà cứ lắt nhắt đi từng bước  một.
Anh  giao liên dẫn đường trên chặng này đã nai nịt xong. Anh đứng trên một cái rễ cây  và tuyên bố nội qui mới do anh ta đặt ra sau khi đã được cấp chỉ huy truyền lại  tình hình địch. Anh ta rất gọn. Súng cạc-bin, quần đùi, áo tay  ngắn.
Anh  ta nói:
- Hôm  nay chúng ta sẽ đi một con đường đặc biệt. Có thể nói là rất gian khổ và nguy  hiểm.
- Có  nhiều dốc không đồng chí? – Một anh chiến sĩ  hỏi.
Anh  giao liên đáp:
-  Không có dốc sao phải Trường Sơn. Càng đi vô càng dốc nhiều. Ở đầu đường, các  anh bị cái đồi “Ngàn lẻ một”, vô đến cuối dãy Trường Sơn các anh sẽ bị cái đồi  em em cái “Ngàn lẻ một” đó.
Anh  giao liên xoè bàn tay ra:
-  Đồng chí nào còn thuốc cho xin điếu, lạt miệng quá. Hình như cơn sốt  tới.
Một  anh chiến sĩ móc trong túi ra một mẩu thuốc và trao cho anh giao  liên.
- Tôi  còn có bấy nhiêu. Thăng Long đấy!
- Ồ!  Thăng Long hả? Để làm vài hơi cho biết mùi – Anh giao liên bật lửa châm thuốc  hút và nói tiếp:- Nhưng vô Nam dốc cao hơn các đồng chí  à!
Một  người cãi lại:
- Vô  Nam là đi về phía đồng bằng, tại sao dốc càng cao  hơn?
Anh  giao liên phì phèo điếu thuốc không chịu cháy, anh phun phun sợi thuốc và nói  với sự chắc chắn:
-  Đành rằng đi về Nam là đi về phía đuôi Trường Sơn, nhưng tới đó dốc sẽ cao hơn  nữa. Là vì sức khoẻ của các đồng chí đã kiệt. Ở đầu Trường Sơn các đồng chí leo  cái “Ngàn lẻ một” tuy cao nhưng các đồng chí còn sức. Còn vô Nam tuy là dốc thấp  hơn nhưng người hết gân, ngựa hết cỏ, muối mắm cũng cạn, chỉ còn có nước suối mà  thôi!
Ai  nầy lẵng lặng nghe và nhìn lại bản thân mình thì thấy đó là điều chí  lý.
Nghe  anh giao liên nói, tôi ớn quá. Trước mắt mình không có cái gì phấn khởi cả. Con  đường hôm nay, không biết có vạch nổi hay  không?
Đường  đi gian nan thật vì đây là con đường không có đường. Không một ai đi trước mình  trên lối này. Một thứ đường không biết sẽ đưa mình đi tới  đâu?
Đi  vài bước lại dốc, mạnh ai nấy đi theo ý thích và sức khoẻ của mình. Cả một khu  rừng đó, cả một dãy đồi đó, ai muốn đi hàng ngang hàng dọc gì thì cứ đi. Người  khiêng súng đi theo sự bất lợi của người khiêng súng; người mang ba-lô đi với sự  uể oải của người mang ba-lô. Cho nên cả đoàn người đi qua rồi vẫn không để lại  phía sau một vết mòn nào khả dĩ gọi đó là đường mòn để cho kẻ đi sau nhờ. Lên  đến một cái đỉnh dốc, anh giao liên nhìn dáo dác và  bảo:
- Bỏ  mẹ! Lạc rồi!
Một  người nhảy cỡn lên như đạp phải lửa:
- Hả,  đồng chí nói cái gì? Lạc rồi hả?
-  Chưa chắc nhưng sao đi mãi mà chưa qua được buông  Ô.
-  Buông Ô là buông gì đồng chí?
-  Buông Ô là buông Ô chớ buông gì..
- Cái  buông đó nằm ở đâu đồng chí?
- Ở  chỗ nó nằm chớ đâu.
-  Nhưng ở hướng nào? Đông hay Tây?
- Tôi  chẳng biết Đông Tây gì hết!
-  Trời đất! Anh học lớp mấy mà anh không biết phương hướng khi đi  rừng?
Hai  người đôi co với nhau làm cho anh giao liên đang lúc mệt, đổ quạu. Anh  nói:
- Tôi  không có học lớp mấy hết! Hồi nhỏ tới lớn tôi đi chăn trâu cho người ta không  hè!
Rồi  anh giao liên bỏ đi giữa sự câm lặng của mọi người. Đi được vài bước anh quay  lại:
- Ở  đâu ngồi đó nghe! Bỏ đồ xuống nghỉ. Đi bậy bạ tụi nó bắn tên thuốc độc chết ráng  chịu.
Tôi  lắc đầu hỡi ôi! Thế là lạc mất rồi.
Trời  chiều gió ít nhưng không khí âm âm lạnh rợn người. Nắng đã xuống thấp chỉ còn  vài ba đốm nhợt nhạt trên rễ cây. Không có con chim nào về tổ. Rừng hoang đến  nỗi chim không làm tổ.
Vài  ba người ném ba-lô xuống. Súng đạn kẻ thì treo trên cành cây, người thì giá  súng, nhiều người lót đít ngồi như khúc gỗ.
Mấy  anh chỉ huy thì dở bản đồ ra xem. Tôi cũng chen vào đám này khom xuống xem bản  đồ làm như mình cũng là tham mưu.
Bản  đồ nằm dưới đất, li ti những gân xanh gân đỏ chạy chằng chịt nhưng loay hoay mãi  không ai tìm ra điểm hiện mình đang ngồi. Tôi nóng mũi nên chen vào một cách hết  sức vô trách nhiệm:
-  Thôi các đồng chí ơi! Đừng có tìm mà mất công! Biết đâu mà tìm? Thiệt là vô  lý!
Lặng  thinh một lát tôi lại nói:
- Tôi  có cách này hay lắm!
-  Cách nào?
-  Quay lại trạm cũ!
- Để  làm gì?
- Để  có suối!
Hai  vị chỉ huy mới té ngữa. Ở đây đâu có nước nôi gì? Ai cũng khát, mong cho tới nơi  để nốc ba bi-đông một lúc vào cái dạ dày thay cơm. Nhưng bây giờ nước suối cũng  không có nữa rồi.
Đành  vậy thôi chớ biết làm sao? Quay trở lại đâu có phải là dễ? Đi rừng như đi đêm,  nhất nhất đều phải có người dẫn nếu không thì cứ đi quanh quanh mãi trên vết  chân mình mà thôi. Người hướng dẫn đã đi lạc thì làm  sao?
Tôi  buồn rầu vô cùng, vừa việc lớn vừa việc nhỏ, vừa đường ngắn vừa đường dài, đều  không có một chút gì thuận lợi…
Tôi  đang tìm chỗ để mắc võng. Bỗng tôi ngồi phệt xuống. Hai tay quơ quào bứt lấy một  bụi rau xanh đưa lên mũi ngửi rồi bỏ vào túi cài nút lại ngay. Một cử chỉ chớp  nhoáng nhưng Việt cũng trông thấy. Việt hỏi:
- Cái  gì vậy anh?
-  Ngò, ngò gai cậu ơi!
- Ngò  nêm canh chua đó phải không?
-  Đúng rồi.
Sự  trao đổi của chúng tôi lọt vào tai những người bên cạnh, rồi lập tức được truyền  ra khắp đoàn nhanh như gió.
- Ở  đây có ngò gai nghe!
- Tìm  ngò gai nấu tộ canh chua với lá bứa bây ơi!
Thế  là mọi người dẫm lên gai góc, bới vào những kẹt đá để tìm cái món gia vị thân  thuộc đó như một cuộc hành quân truy lùng địch  quân.
Nhưng  không ai tìm ra được thêm một lá nào nữa.
Việt  bảo tôi:
-  Đúng ngò không anh?
- Sao  không đúng? Tôi ăn canh chua mòn răng mà!
- Đưa  coi!
Tôi  móc túi đưa mấy cái lá rau cho Việt. Việt đưa lên mũi hít hít như ngửi thuốc  khoẻ:
-  Đúng rồi. Ngò! Ngò!
Lính  tráng văng tục ầm ĩ. Kẻ khiêm tốn thì than thở, đứa lỗ mãng thì chửi thề. Có  những kẻ đã từng gặp cái cảnh lạc đường này thì ngồi lặng thinh chỉ kêu lên một  tiếng rồi thôi.
Nước  trong bi-đông đã cạn. Suối reo thì dưới chân núi. Chỉ hoá thành khỉ thì hoạ may  mới đi xuống lấy nước được vì dốc đứng và ít ra bây giờ cũng đã 6 giờ  chiều.
Người  người thiêm thiếp vì đói lả và thất vọng. Đã nhọ mặt người, mỗi con người đều  hòa lẫn vào cây cỏ và bóng tối.
Người  giao liên nào đã dẫn họ tới đây? Bao giờ thì họ sẽ tới nơi hay không bao giờ họ  đến?
Nỗi  sợ sống giữa rừng sâu cùng với nỗi lo câu bị dẫn lạc đường nhồi lại làm một đè  nặng lên tâm trí tôi như một tảng đá. Tôi chưa mắc võng vội. Lòng cứ bồn chồn  không sao ổn định được. Loay hoay một chập thì trời mưa. Mưa thật to, bất ngờ.  Ai cũng lấy ni-lông ra choàng và đứng co rút lại tìm một gốc cây mà nép mình  vào. Mưa càng nặng hạt. Sườn núi nghiêng trút cho nên không thể đứng thẳng hai  chân được, phải đứng một chân thẳng một chân dùn và cứ chịu như thế cho đến tàn  đám mưa.
Không  có gì buồn bằng khi hạ trại mà lại gặp mưa. Rồi lại không có nước và cuối cùng  là không một que củi. Mà lại tối mịt.
Thôi,  đành mắc võng rồi leo lên nằm với cái bụng tóp ve. Và chỉ có thể xoa dịu cơn đói  bằng mấy giọt nước còn tráng đít bi-đông.
Nhiều  người lầm bầm chửi giao liên, nhiều người đốt lửa hơ quần áo. Tôi thì chỉ nằm  queo, không buồn nói tới Thu cũng không động tới  Việt.
Bỗng  Việt đến nói với tôi:
- Ta  nấu canh chua đi anh!
-  Giỡn cậu!
-  Thiệt mà! Tôi vừa bắt được đúng ba con cua đá. 
Việt  móc túi quần đưa ra ba chú cua. Mỗi chú to bằng ngón chân cái, đen như than,  ngời ngời như da trùn hổ. Việt còn móc trong túi áo ra mấy cái đọt bứa và  nói:
- Vậy  là đủ chất liệu rồi.
Tôi  nói:
- Đâu  còn nước!
- Vét  hết nước trong bi-đông của tôi, của anh và của Thu là  đủ.
Rồi  Việt hăng hái tiến hành nấu canh chua. Việt chẻ những thanh nứa ra bằng chân  nhang, bó lại. Tất cả cua, lá bứa và nước cho vào một cái ga-men. Tôi cầm cái  quai, còn Việt thì châm lửa vào mớ que nứa kia kê duới đít ga-men. Việt  gọi:
- Thu  ơi! Có ăn canh chua không?
-  Canh chua đâu anh?
- Có  đây!
Tôi  bảo Việt:
- Coi  chừng hễ nước vừa sôi chín lá bứa và cua thì ngưng, kẻo sôi lâu cạn hết  nước.
Quả  thật, nước không ngập lưng mấy con cua. Chập sau, canh vừa sôi là tôi bảo Việt  dập lửa ngay, rồi bảo Việt và Thu mang ga-men lại. Tôi lấy muỗng chia cho từng  người . Mỗi người được một chú cua đá, mấy cái lá bứa và ba muỗng  canh.
Bỗng  Thu kêu lên:
- Ấy  chết, ngò đâu không nêm vào?
- À  ạ! Cái món chính mà lại quên.
Tôi  bảo Thu:
- Em  móc túi áo anh lấy ngò ra, tay anh bẩn quá.
Thu  phụng phịu:
- Anh  bóc lột em từng chút.
- Anh  là tư sản văn chương đây mà!
Việt  cười:
-  Nhưng tư sản hụt.
Rồi  mỗi đứa đem thức ăn về lều ăn riêng tùy theo sở thích của mình, cốt làm sao các  món phụ thêm làm cho món canh chua cua đá được tăng thêm giá  trị.
Cơm  nắm mang đi từ trưa tới giờ thiu nhớt. Tôi cắn vô một miếng. Tôi không ngờ nó  thiu đến thế nhưng không lẽ lại phun ra. Dù thiu nó cũng là cơm mà. Cho nên tôi  ráng sức bình sinh mà nuốt nó vào. Ngon hay không tôi cũng biết nữa, chỉ thấy  sau khi miếng cơm đi khỏi mồm thì tôi nôn thốc nôn tháo và cuối cùng nó dội hết  ra ngoài.
Tôi  cầm cái nắp ga-men canh chua lên mà húp mà nhai luôn con cua với mớ lá bứa và  nuốt ngay. Còn mấy lá ngò thì tôi nhai chầm chậm để mà thưởng thức hương vị của  quê hương với tất cả sự mơ ước và tưởng tượng của  tôi.
Cơm  vừa xong thì anh giao liên xuất hiện. Anh bảo đã tìm được đường xuống suối. Thế  là cả đoàn nhao nhao đứng lên, không ai bảo ai, ùn ùn đi theo anh giao liên  xuống suối.
Tôi  và Việt phải thay nhau mà dìu Thu. Vì đi núi, leo lên rất nguy hiểm mà đi xuống  lại càng nguy hiểm hơn. Ngã một cái là tai nạn ngay.
 
No comments:
Post a Comment