Ngày hành động đã đến. Từ sáng sớm, những đoàn người Ả Rập đã đi vào trong thành phố từ những làng mạc trong vùng Galilee gần đó. Chợ búa đầy những người, những con lừa kéo xe chở hàng ra chợ. Con đường nào cũng có người. Cảm tử quân Maccabee gốc Á đông hoặc Phi châu ăn mặc như dân Ả Rập xâm nhập vào khu phố Acre. Họ đem theo chất nổ, bộc phá, vũ khí dấu trong bộ quần áo Ả Rập rộng thùng thình.
Giờ hành động kém hai giờ. 250 thanh niên và 50 thanh nữ Maccabee đã vào trong Acre. Đúng mười một giờ 15, lính gác trong nhà tù đổi phiên gác, bốn người Maccabee nằm vùng đã vào vị trí. Còn một tiếng rưỡi đồng hồ đến giờ hành động, một đơn vị Maccabee thứ hai tập trung trên đồi Napoleon, ăn mặc giả binh sĩ Ăng Lê lên ba xe vận tải vào bên trong Acre, đậu gần nhà tù. Xuống xe, họ chia ra từng toán bốn người, như những toán lính đi tuần.
Giờ hành động kém một giờ. Ari mặc quân phục giả Thiếu Tá quân đội Anh cùng với tài xế lái đến đậu nơi phiá bắc nhà tù. Chàng bước ra khỏi xe châm điếu thuốc la, rồiù đi đến chỗ khẩu thần công cũ kỹ của quân Thổ, nhìn ra biển ngắm cảnh.
Giờ hành động kém 48 phút. Các toán Maccabee lặng lẽ di chuyển đến vị trí ấn định sẵn. Nhóm thứ nhất tập họp nơi tiệm bán cà phê Abu Christos. Nhóm thứ hai, đông đảo đến quỳ trong sân một ngôi đèn Hồi giáo gần đó, làm bộ cầu nguyện. Nhóm thứ ba tập trung trong công trường Khan, nơi mà từ ngàn năm, những đoàn du mục ghé qua để trao đổi hàng hoá. Họ đứng chộn lẫn vào với những con lạc đà, những con lừa. Nhóm thứ tư tập họp nơi bến cảng gần một làng đánh cá. Nhóm thứ năm tụ họp nơi cổng Land Gate sát bờ biển.
Ben Moshe bà Ben Ami đến đầu tiên, họ lên một tầng cao, quan sát các cánh quân ta xâm nhập “vùng hành quân” và đến các điểm tập trung. Họ cũng để ý dấu hiệu “đèn xanh” từ bốn người Maccabee nằm vùng.
Mục tiêu chính cho trận tấn công là nhà tắm công cộng Hamman El Basha, do người Thổ xây 120 năm trước. Nhà tắm công cộng này do El Jazzar xây đâu lưng vào bức tường nhà tù Acre.
Đúng một giờ chiều, giờ hành động đã điểm. Ben Moshe, Ben Canaan và Ben Ami ra dấu hiệu tấn công. Ari dẫn đầu một toán năm mươi người tiến vào nhà tắm công cộng, ra sân phơi nắng đằng sau. Họ đem theo chất nổ. Những người Ả Rập trong phòng tắm, đầy hơi nước, nhìn đoàn quân Maccabee chạy ngang qua với cặp mắt hốt hoảng.
Mười lăm phút sau, một tiếng nổ kinh hoàng phát ra, làm bức tường nhà tù Acre thủng một lỗ hổng lớn. Tiếng nổ cũng là dấu hiệu cho bốn Maccabee nằm vùng tung một quả lựu đạn vào phòng truyền tin, phá hủy hệ thống điện thoại, truyền tin nhà tù. Một qủa khác vào nhà máy phát điện, làm tối om khu vực và cắt đứt hệ thống báo động. Một Maccabee chạy ra chỗ tường bị phá thủng, chỉ đường cho toán xung kích xông vào bên trong.
Một toán trong đơn vị Ari được lệnh chiếm kho vũ khí, một toán khác đến cản đường khu lính gác ở, không cho tiếp viện. Những toán Maccabee dưới quyền điều động của Ben Moshe, chia ra từng toán 10 người xung phong vào những mục tiêu đã ấn định, bắn giết lính gác. Đơn vị chận hậu, lập tuyến phòng thủ bên ngoài chờ quân Anh đến tăng viện từ một trại binh gần đó.
Maccabee được lệnh phá tất cả các phòng giam tội nhân, cả Do Thái lẫn Ả Rập, lùa họ ra đường chạy tứ phiá đánh lạc hướng quân Anh. Ari cùng với năm cảm tử quân Maccabee xông vào khu giam tử tội bắn chết bốn người lính canh, đem ông trùm Akiva cùng Dov Landau ra lại đường cũ qua ngã phòng tắm công cộng, nơi có hai xe chờ sẵn. Akiva cùng Ari lên một xe, chiếc kia chở Dov Landau. Hai xe chạy hai hướng khác nhau.
Ben Moshe ra lệnh rút sau khi làm chủ tình hình nhà Acre trong vòng hai mươi mốt phút. Xe chở Akiva và Dov Landau chạy ra hướng biển bị lính Anh phát giác, họ cho một đại đội lính đuổi theo. Theo kế hoạch, xe sẽ chạy đến làng chiến đấu kibbutz Masaryk. Khi ngang qua đồi Napoleon, một Maccabee cho biết phải chạy lối khác, con đường đã bị quân Anh chặn.
Ari ra lệnh cho tài xế chạy trên đám ruộng, vòng qua nơi lính Anh ngăn chặn. Chiếc xe tưng lên tưng xuống làm tài xế phải bớt tốc độ, mấy binh sĩ Anh chạy bộ đuổi theo bắn vào xe. Chợt Akiva kêu lên đau đớn, thêm một tràng nữa trúng Ari, nhưng xe qua khỏi nút chặn. Người tài xế quay lại hỏi Ari “Đằng sau có sao không?”. “Cả hai chúng tôi đều trúng đạn”.
Ari bị trúng một viên vào đùi, chàng cảm thấy chân phải tê đi. Ari đỡ ông chú Akiva dậy, ông ta bị trúng vào lưng, máu thấm ướt áo.
- Ông ta bị nặng không?
- Nặng.
Akiva kéo Ari gần lại.
- Ari. Chú có qua khỏi không?
- Không sao. Thưa Chú.
- Kiếm chỗ nào dấu tôi. Chắc không chạy xa được.
Xe đến làng Kfar Masaryk, họ đã chờ sẵn. Đem xe đi dấu và một chiếc khác sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Một Maccabee cho Ari biết.
- Ông trùm Akiva, quá yếu chắc không đi tiếp được, phải dấu ở trong làng.
- Không được! Trước sau gì bọn Ăng Lê cũng tìm ra. Tôi không muốn họ biết ông trùm Akiva chết.
Hai người Maccabee hiểu rõ ý định của Ari, họ lên xe khác chạy tiếp. Chiếc xe hướng về đỉnh Mount Carmel. Ari ôm ông chú đã bất tỉnh trong lòng, chàng nghiến răng chịu đựng cơn đau. Akiva mở mắt ra trông thấy Ari, muốn nói điều gì nhưng chỉ mỉm cười.
Xe ngừng lại bên cạnh một bụi rậm gần ngôi làng Daliyat el Karmil. Mussa, một chiến sĩ Haganah đợi sẵn với chiếc xe lừa. Ari nhẩy ra khỏi xe, quần áo uớt đẫm máu ông chú Akiva, Mussa vội chạy lại. Ari ra lệnh.
- Tôi không sao. Đem Akiva ra, ông ta chết rồi. Ari ra lệnh tiếp cho hai chiến sĩ Maccabee.
- Không được cho bất cứ ai biết Akiva đã mất, ngoại trừ Ben Moshe và Ben Ami. Mussa cùng tôi sẽ lo chôn cất chú tôi, các anh đem xe đi rửa nhanh lên.
Chiếc xe lừa lặng lẽ chở Ari cùng ông chú Akiva ngang qua làng. Họ tiếp tục đi lên trên đỉnh cao nhất của Mount Carmel. Đến tối họ đến một cánh rừng nhỏ, nơi có đền thờ Elijah, người cao siêu nhất trong các đấng tiên tri Do Thái. Cũng nơi này Elijah đã chứng minh quyền uy của Thượng Đế cao hơn những tu sĩ Jezebel ở Baal.
Ari cùng với Mussa đào một huyệt sâu cạnh đền thờ Elijah. Ari nói “Cởi bộ quần áo tù ra trước khi chôn”, chàng muốn ông Chú được tự do trong lòng đất. Ari quỳ trước mộ người chú thương yêu rất lâu. Yakov Rabinsky (tên cũ của Akiva) đã được sinh ra trong căm hờn, ông ta ra đi trong niềm thương tiếc. Qua bao nhiêu năm, giờ đây Akiva được ngủ yên trong hòa bình. Ari thầm nghĩ, sau này thế giới sẽ biết Akiva ngủ giấc nghìn thu ở đâu, đó cũng là niềm hãnh diện của dân tộc Do Thái. Cuối cùng chàng nói.
- Vĩnh biệt Chú. Cháu chưa kịp thưa với Chú rằng Bố cháu vẫn thương yêu chú và đã tha thứ cho Chú.
Bác Sĩ Lieberman và Kitty đang ở trong phòng làm việc.
- Tôi không biết nói sao để thuyết phục cô ở lại.
- Cám ơn. Mọi chuyện đã êm xuôi, tôi cảm thấy trống vắng nơi đây. Không hiểu sao tôi lại gắn bó với làng Gan Dafna này. Các trả em đã có nhiều tiến bộ.
- Chúng nó sẽ nhớ cô.
- Tôi cũng nhớ các em.
Kitty xửa soạn ra khỏi phòng, bác sĩ Lieberman nói với theo.
- Đừng quên đến nhà ăn sớm nửa tiếng đồng hồ. Bữa cơm chia tay với các trẻ em.
- Các em không phải làm vậy. Đừng nghĩ là bữa cơm tiễn chân.
- Tất cả mọi người đều yêu cầu. Tôi biết thế nào bây giờ!
Kitty bước ra cửa, bác sĩ Lieberman chợt hỏi thăm Karen.
- Thế còn Karen?
- Bết! Từ hôm cô ta đi thăm Dov. Biết đâu giờ này thay đổi, biết tin nhà tù Acre bị tấn công, giải cứu tù nhân. Cô bé này đã trải qua quá nhiều đau thương trong cuộc đời, phải mất thời gian mới bình phục được.
- Kitty. Trong tâm tôi muốn nói rằng cô đã sai lầm khi rời bỏ chúng tôi.
Kitty đứng trước cửa văn phòng Jordana, nàng không thích cô em ngỗ ngáo của Ari. Kitty gõ cửa. Có tiếng trả lời “Vào đi”, Kitty bước vào phòng. Jordana đang ngồi đọc giấy tờ, ngước cặp mắt lạnh lùng nhìn Kitty. Kitty lên tiếng.
- Tôi băn khoăn... Jordana. Không biết Dov Landau có thoát không? Cô cũng biết Karen sẽ rất vui sướng khi được tin Dov.
- Tôi không biết. Jordana trả lời cộc lốc.
- Tôi nghe nói Ari chỉ huy trận tấn công.
- Làm sao tôi biết được.
Kitty ra ngoài đứng bâng khuâng nơi bức tượng Dafna, mấy trẻ em trông thấy nàng chạy lại. “Chào Kitty”, rồi vòng tay ôm lấy eo nàng. Kitty xoa đầu đứa bé, đó là niềm vui sướng dành cho Kitty nơi Gan Dafna.
Kitty quay trở vào phòng làm việc định dọn dẹp. Đang ngồi xem lại chồng hồ sơ các trẻ em, bỗng nàng giật mình quay lại. Một người đàn ông Ả Rập lớn con hiện ra trước cửa.
- Hy vọng tôi không làm bà sợ. Tôi có thể vào trong phòng không?
- Vâng, xin mời vào. Kitty ngạc nhiên vì người Ả Rập này nói tiếng Anh.
Anh ta bước vào phòng, đóng cửa lại rồi mới lên tiếng.
- Có phải tên bà là Freemont?
- Đúng.
- Tôi là Mussa, sắc dân Druse. Bà cũng biết người Druse chúng tôi là một nhóm dân thiểu số theo đạo Hồi nhưng đứng về phiá người Do Thái.
- Ông sống có xa đây không?
- Tôi làm việc cho Haganah.
Câu trả lời làm Kitty dậm chân, như muốn nhẩy lên.
- Ari?
- Anh ta trốn nơi làng của tôi Daliyat el Kamil. Anh ta chỉ huy trận tấn công nhà tù Acre. Bây giờ muốn có bà bên cạnh.
Được tin Ari, trống ngực Kitty đập loạn xạ, Mussa nói tiếp.
- Ari bị thương, bà có đi được không?
- Được chứ.
- Không nên đem theo thuốc men, dụng cụ y khoa. Người Anh đặt nhiều nút chặn, sẽ làm rắc rối cho chúng ta.
- Cho tôi mười phút.
Kitty chạy vội lên phòng bác sĩ Lieberman thông báo, rồi về phòng lấy ít đồ y khoa đem theo, mặc dầu Mussa đã căn dặn. Họ chở theo một đám trẻ em để tránh sự chú ý của binh sĩ Ăng Lê khám xét dọc đường nơi những nút chặn. Kitty nhắm mắt lại, nàng cũng biết sợ... Nàng cầu nguyện. “Ai là Thượng Đế chăm sóc dân Do Thái... Hãy để cho Ari được sống”.
Mussa dừng chiếc xe bus nơi giữa làng, một đám người Druse đợi sẵn tiếp đón trẻ em đưa chúng vào căn nhà lớn, nơi trung tâm sinh hoạt của làng. Còn lại ba người Mussa, Kitty, và Karen tiếp tục đi đến một căn nhà khác trong làng. Trước cửa là hai người Druse Haganah võ trang đứng canh gác. Mussa đưa Kitty vào bên trong.
Trên một cái giường nhỏ, Ari đang nằm rên, chứng tỏ chàng chịu đựng cơn đau đã lâu. Kitty kéo tấm drap đang đắp cho Ari ra, quần áo và nệm dính máu be bét. Máu đã khô lại thành lớp mầu đen. Mussa giúp Kitty lấy nước rửa vết thương cho Ari, chàng mở mắt ra hỏi “Kitty?”. “Vâng, tôi đây”. “Cám ơn Thượng Đế”. Kitty quay sang nói với Mussa.
- Vết thương nặng, phải đưa anh ta đi bệnh viện, bác sĩ chăm sóc cẩn thận hơn.
- Nhiều người bị thương trong trận tấn công hôm qua, đang lẩn trốn khắp nơi trong vùng Galilee. Cảnh sát, nhân viên anh ninh người Anh để ý tất cả mọi bác sĩ Do Thái. Mình không dám đi mời bác sĩ.
Ari nắm tay Kitty.
- Em phải làm công việc của một bác sĩ. Nếu bọn Ăng Lê tìm ra anh, chúng sẽ treo cổ. Chẳng thà anh chết dưới bàn tay em.
Kitty quay sang nhờ Mussa cho người thân tín đi bộ băng rừng mua lậu thêm một ít thuốc men, để nàng giải phẫu lấy đầu đạn ra.
Mọi chuyện tiến hành êm xuôi. Mấy tiếng đồng hồ sau, Kitty hoàn tất nhiệm vụ, nàng thấm mệt ngồi xuống ghế. Karen đem đến cho Kitty một ly nước, rồi cùng với Mussa bước ra ngoài. Kitty ngồi bên cạnh giường, cầm tay Ari coi mạch... Tốt. Chàng sẽ qua khỏi, Kitty gục đầu trên lực Ari “Ari... Ari... Ari... Ari”.
Kitty đi qua phòng bên cạnh, Karen đang ngủ trên một ghế dài, nàng đưa tay xoa má Karen. Karen mở mắt ra hỏi.
- Anh ta có sao không?
- Không. Vẫn còn đau, nhưng hy vọng sẽ qua khỏi. Tôi muốn cô đưa trẻ em trở lại Gan Dafna sáng nay.
- Nhưng, Kitty...
- Thưa với bác sĩ Lieberman, tôi phải ở lại đây cho đến khi nào... tình trạng tốt hơn.
- Mình phải rời Palestine ngày mốt nữa.
- Chuyến đi phải dời lại. Kitty lắc đầu trả lời.
Kitty đến thăm Tướng Sutherland. Ông ta báo tin vui.
- Kitty. Dov đã trốn thoát, hiện giờ đang trốn nơi làng Mishmar. Tôi vẫn chưa cho Karen biết tin.
- Cô ta sẽ mừng lắm. Bruce, chuyện gì sắp sửa xẩy ra ở Palestine?
- Làm sao biết được!
- Ông có nghĩ rằng Liên Hiệp Quốc sẽ nhượng bộ cho người Ả Rập?
- Chiến tranh sẽ xẩy ra.
- Tôi muốn biết chuyện gì sẽ đến với Gan Dafna.
- Người Ả Rập có thể lập một đạo quân 50 ngàn người, thêm 20 ngàn tự vệ quân dọc theo biên giới vùng Palestine. Có một tên Ả Rập tên là Kawukji, người xách động biến cố 36, 39. Hắn ta đang bận rộn tuyển mộ một đạo quân cướp của giết người... Người Ả Rập dễ có súng đạn hơn... vì xung quanh là các nước láng giềng Ả Rập.
- Thế còn đám còn lại?
- Ai Cập và Iraq đều có quân đội trên 50 ngàn người. Có đơn vị Saudi Arabian trong quân đội Ai Cập. Syria và Lebanon có khoảng 20 ngàn quân... Ngoài ra còn có quân Lê Dương Ả Rập nữa. Bọn này tinh nhuệ, trang bị tối tân, đầy đủ.
- Trường hợp được mời, ông sẽ khuyên người Do Thái phải làm gì?
- Nên phòng thủ Tel Avi và hải cảng Haifa, tất cả mọi nơi khác phải bỏ. Người Do Thái chỉ có 4 hoặc 5 ngàn quân Palmach, khoảng 50 ngàn Haganah chỉ có trên giấy tờ, và chỉ có khoảng 10 ngàn khẩu súng. Quân Maccabee giỏi lắm chỉ có đến một ngàn. Quân Ả rập đông gấp 40 lần quân Do Thái. Dân số gấp trăm lần và đất đai gấp năm ngàn lần. Kitty, qua cuộc đời binh nghiệp của tôi, người Do Thái không thể nào thắng được quân thù.
Đến cuối tháng Tám 1947, Liên Hiệp Quốc nhóm họp ở Geneva đồng ý phân chia hai sắc dân Do Thái và Ả Rập. Người Ả Rập được chia hằng triệu dặm vuông đất hoang, người Do Thái xin sa mạc Negev chỉ rộng vài ngàn dặm vuông, LHQ chấp thuận. Người Do Thái mất thành phố vĩnh cửu Jerusalem, họ được giữ Sharon, một phần vùng Galilee và sa mạc Negev.
IX. TỈNH DẬY TRONG ÁNH HÀO QUANG.
Kuwatly, Tổng Thống Syria: Chúng ta sống hoặc chết với Palestine.
Nhật báo Al Kulta, Cairo: Năm trăm ngàn quân Iraq đã chuẩn bị cho trận Thánh Chiến này. 150 ngàn quân Syria sẽ tràn qua biên giới Palestine như giông bão và quân đội Ai Cập dũng mãnh sẽ ném người Do Thái xuống biển, nếu họ dám tuyên bố dựng nước.
Jamil Mardam, Thủ Tướng Syria: Đừng tốn hơi nữa, các người anh em Hồi giáo. Hãy đứng lên tiêu diệt bọn Zionist.
Ibn Saud, Quốc Vương Saudi Arabia: Năm mươi triệu người Ả Rập. Không nhầm nhò gì nếu chúng ta mất đi mười triệu để giết tất cả bọn Do Thái? Đáng giá lắm.
Trong khi đó người Do Thái không có đủ vũ khí. Người Ăng Lê vẫn phong tỏa bờ biển Palestine, họ ngăn cấm tất cả người Do Thái trở về cố hương, kể cả trên đảo Cyprus nơi mà Aliyah Bet xúc tiến việc huấn luyện quân sự cho dân Do Thái. Khi về đến Palestine họ có thể chiến đấu ngay.
Trên lý thuyết, khi người Anh rút đi, họ sẽ bàn giao lại căn cứ cho bên nào có nhiều dân số hơn. Nhưng trên thực tế, họ giao lại những căn cứ quan trọng cho phe Ả Rập. Lần đầu tiên, Haganah lột vỏ bọc, ra lệnh tổng động viên người Do Thái.
Ari Ben Canaan vẫn chưa bình phục hẳn. Điều này gây khó khăn cho ông trùm Haganah Avidan. Ông ta muốn Ari chỉ huy một trong ba lữ đoàn Palmach. Lữ đoàn Hanita, lực lượng chính yếu, chiụ trách nhiệm vùng Galilee. Lữ đoàn Hillmen trong vùng Judea, và lữ đoàn Desert Rats bao vùng phiá nam.
Cấp chỉ huy Palmach từ lữ đoàn trưởng trở xuống đều trong lứa tuổi hai mươi, cứng rắn và được xếp hạng “Aùc liệt”. Thành phần nồng cốt cho đơn vị Palmach gồm những thanh niên, thanh nữ lấy ra từ những làng chiến đấu kibbutz.
Ari là một trong những cấp chỉ huy Palmach nhiều kinh nghiệm. Chân của chàng vẫn còn quá yếu nên Avidan chỉ định Ari làm cấp chỉ huy Haganah trong vùng thung lũng Huleh, bao gồm phần đất nơi phiá bắc Galilee, qua làng Safed, lên tới biên giới với Lebanon và Syria.
Những ngọn đồi nơi biên giới Lebanon đặt vấn đề cho Ari. Trong vùng có đồn lính Anh, trại Esther mà đúng theo hiệp ước sẽ phải bàn giao lại cho người Do Thái vì dân Do Thái trong thung lũng Huleh đông hơn người Ả Rập. Ari lập bộ chỉ huy trong làng Ein Or, mà ông chú Akiva là người sáng lập. Chàng được tăng cường thêm vài trăm quân Palmach từ lữ đoàn Hanita. Ari có thêm David, Zev Gilboa và Joab Yarkoni làm phụ tá.
Sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị ám ảnh Ari, cũng như Haganah. Các làng chiến đấu xin yêu cầu thêm vũ khí chàng không có, ông trùm Haganah Avidan cũng không. Ari nhận định rằng phe ta có hai yếu điểm nơi làng chiến đấu Gan Dafna và Safed. Chàng hy vọng giữ được khi quân đội Anh bàn giao căn cứ Esther lại cho Do Thái, cũng như con đường đi đến làng Ả Rập bạn Abu Yesha không bị cắt.
Làng Safed ở trong một vị trí chiến thuật nguy hiểm hơn. Người Do Thái đã quyết định chiến đấu đến cùng chứ không bỏ đất “Một tấc sơn hà, một tấc máu”. Safed là hòn đảo cô đơn nằm giữa biển Ả Rập. Người Ả Rập xung quanh đông gấp mười hai lần người Do Thái. Bên trong Safed, Haganah chỉ có hơn hai trăm tay súng phải đương đầu với hơn 2000 tên Ả Rập. Về vũ khí, bên trong Safed chỉ có 40 khẩu súng trường, 40 khẩu tiểu liên nội hoá Sten, một đại liên, một súng cối và vài trăm quả lựu đạn nội hoá.
Remez, chủ một khách sạn cũng là cấp chỉ huy Haganah trong làng Safed, ông ta đi qua đi lại trước bàn Ari, trong khi cựu tướng lãnh Sutherland yên lặng ngồi trong một góc hút cigar.
- Chúng tôi muốn ở lại Safed. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến người cuối cùng, và chúng tôi đã quyết định như vậy.
- Chúng tôi cần thêm vũ khí.
Ari nổi nóng, chàng đã phải nghe lời xin này hai mươi lần mỗi ngày.
- Đâu phải muốn có là phải có ngay!
Tướng Sutherland xen vào hỏi Ari.
- Ari. Anh có tin tưởng Thiếu Tá Hawks, viên sĩ quan chỉ huy vùng này?
- Ông ta là người bạn.
- Vậy thì nên nghe lời ông ta. Ông ta sẽ bảo vệ người Do Thái rút ra khỏi Safed trước khi bàn giao trại Esther.
- Khi nào quân đội Anh rút đi.
- Vẫn chưa biết. Hawks là người tốt, nhưng cấp chỉ huy trói tay ông ta.
ĐÊM GIÁNG SINH 1947.
Karen nhìn đồng hồ rồi nói với Kitty.
- Tôi phải ăn trước để ra canh gác.
- Nhớ mặc thêm áo, bên ngoài lạnh
Bỗng dưng có tiếng hát từ bên ngoài ngân lên. Karen mỉm cười.
- Đặc biệt dành cho bà đó. Các em đã tập từ hai tuần trước.
Kitty bước ra mở cửa sổ. Bên ngoài là năm mươi trẻ em cầm đèn cầy đang hát bản Christmas Carol. Cảm động rơi nước mắt, Kitty vội khoác thêm áo để đi ra ngoài.., Karen khẽ nói “Chúc mừng Giáng Sinh Kitty” rồi nàng chuẩn bị đi ra gác.
Karen được giao phó phiên gác bên ngoài phòng tuyến. Từ cổng làng nàng đi xuống chỗ đặt vọng gác. Trong bóng đêm có tiếng quát lớn.
- Đứng lại.
Nàng dừng bước, đợi lệnh kế tiếp.
- Ai đó?
- Karen Clement.
- Mật khẩu?
- Chag sameach.
Karen thay người gác, nàng lên đạn trong nòng súng, rồi đeo găng tay làm nhiệm vụ canh gác. Karen nhìn ra lớp hàng rào kẽm gai chắn ngang con đường đi Abu Yesha, thung lũng Huleh. Thỉnh thoảng nghe tiếng trẻ em ca hát những bài thánh ca trong dịp lễ Noel vọng tới, tuyết đang rơi, lớp tuyết phủ lên vạn vật càng lúc càng dầy thêm.
Karen nghe có tiếng động phát ra từ một bụi cây, có lẽ con chồn đi ăn đêm. Tiếng động tiến lại gần, rõ bóng người, nàng lên tiếng.
- Đứng lại.
Bóng đen đứng lại, Karen hỏi tiếp.
- Mật khẩu?
- Karen! Bóng đen trả lời, gọi tên nàng thay cho mật khẩu.
- Dov!
Karen nhẩy lên khỏi chiến hào, chạy trên lớp tuyết phủ, lại chỗ bóng đen. Dov cũng chạy về phiá nàng. Cả hãi ngã vào vòng tay nhau.
- Dov! Dov! Em không dè là anh!
Cả hai nhẩy xuống chiến hào, Karen đưa tay lên vuốt má người yêu.
- Dov!... Em không biết nói gì nữa!
- Anh trở lại đây khoảng một giờ đồng hồ, theo dõi em ra đến vọng gác.
Karen nhìn quanh.
- Chỗ này không an toàn, người Ăng Lê có thể tìm ra anh.
- Không sao. Bây giờ họ chẳng làm được gì anh.
Karen cảm thấy lạnh nơi bàn tay, nhìn Dov đang run rẩy trong bóng tối.
- Dov! Anh bị lạnh... Không có cả chiếc áo len nữa!
- Không sao. Anh không sao!
Tuyết vẫn rơi trên chiến hào, mặt trăng bất ngờ xuất hiện, cả hai nhân tình được nhìn rõ nhau hơn.
- Anh trốn trong một cái hang bên ngoài làng Mishmar.
- Em biết.
- Anh ngỡ là em đã qua Hoa Kỳ cùng với bà Freemont.
- Cả em lẫn Kitty đều không muốn phải xa Gan Dafna.
- Anh tự hỏi, mình định làm gì ở đây... Anh muốn trở lại Gan Dafna. Nhưng lúc ra đi, anh đã lấy trộm mấy đồ nữ trang của họ để làm chuyến viễn du... Sợ họ khinh thường coi anh là thằng ăn trộm...
- Không! Không sao! Điều quan trọng là anh được an toàn và vẫn còn sống...
- Anh sẽ cố gắng làm việc, để trả lại cho họ.
- Điều đó không cần thiết. Chẳng ai thù ghét, oán trách anh.
Dov dựa đầu lên đầu Karen, chàng bộc lộ tất cả...
- Trong thời gian anh bị giam trong nhà tù Acre, thời gian trốn trong hang ở Mishmar... Anh tự trách lòng mình... cuộc đời không ghét bỏ anh. Chỉ có anh căm hờn nơi chính bản thân mình. Sau hôm em vào thăm anh trong nhà tù Acre, anh không muốn chết nữa... Anh cũng không muốn chém giết nữa.
- Ồ Dov!
- Em là người bạn gái duy nhất của anh.
- Em biết điều đó.
- Ở Gan Dafna, anh sẽ làm lại tất cả để em hãnh diện vì anh... Anh cứ ngỡ là em không còn ở đây nữa.
Karen đưa tay lên vuốt má Dov Landau.
- Anh bị lạnh, coi chừng bị cảm. Cứ vào ở trong phòng em. Anh nói tất cả cho Kitty, bà ta hiểu chuyện hai đứa mình. Sau khi hết phiên gác, mình sẽ lên trình diện bác sĩ Lieberman. Hãy cẩn thận, mật khẩu là “Happy Holiday”.
- Karen. Lúc nào anh cũng nghĩ về em... Anh có được phép hôn em không?
- Được chứ!
VÙNG GALILEE.
Quân tự vệ Ả Rập bao vây làng chiến đấu Manara trên những ngọn đồi dọc theo biên giới Lebanon. Nửa tá làng khác bị cô lập. Người Ả Rập mở năm đợt tấn công vào làng Ein Zeitim, tất cả đều bị đẩy lui.
Người Syria bắt đầu nhẩy vào cuộc chiến. Họ vượt biên giới vào Palestine, tấn công hai làng chiến đấu Dan và Kfar Szold. Thiếu Tá Hawks phải đưa quân lên đuổi người Syria trở lại biên giới.
Người Ả Rập ở Aata được người Syria tăng cường, tấn công Lahavot Habashan (Những ngọn lửa ở Beshan). Khu định cư Ramat Naftali, tên một trong những bộ lạc ngàn xưa của Do Thái cũng bị tấn công. Người Ả Rập gia tăng hoạt động nơi làng Safed, đợi quân đội Anh rút đi. Họ cắt đường giao thông, tiếp tế phải có quân đội Anh hộ tống.
HẢI CẢNG HAIFA.
Hải cảng chính ở Palestine, người Do Thái đông hơn trên đỉnh Har Hacarmel nằm trên khu Ả Rập. Người Anh công khai thiên vị ép buộc người Do Thái ra khỏi những vị trí chiến lược. Maccabee trả đũa, đẩy thùng phi chứa chất nổ từ trên cao xuống khu Ả Rập, và người Do Thái phục kích một đoàn xe lớn chở súng đạn từ Lebanon. Họ giết được viên chỉ huy.
Người Ăng Lê vẫn tiếp tục kiểm soát người Do Thái không được võ trang, để cho người Ả Rập tự do trang bị.
Khi Ari nhận được tin, người Anh đã giao trại Esther cho người Ả Rập, chàng vội chạy đi tìm Thiếu Tá Hawks.
- Ông bạn là Judas (Kẻ bán Chuá Jesus).
- Không phải lỗi tôi... Bạn phải tin tôi.
- Tôi không tin ai hết.
Thiếu Tá Hawks ngồi ôm đầu nói.
- Lúc mười giờ đêm qua, tôi nhận được lệnh từ trong Jerusalem, đưa quân ra khỏi trại.
- Tại sao ông không thông báo cho tôi?
No comments:
Post a Comment