Monday, April 25, 2011

HÀNH QUÂN DELTA




I. GIỚI THIỆU
        Chương trình Delta là một đơn vị hoàn toàn Việt Nam, do cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA tổ chức dưới danh hiệu Leaping Lena, được Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ huấn luyện. Chương trình Leaping Lena là nơi phát sinh ra các chương trình hành quân biệt kích trên chiến trường miền nam Việt Nam. Đơn vị đặc biệt này là tiền thân cho kế hoạch nổi tiếng OP-35 (Operation Plan 35), trực thuộc Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (MACV-SOG, Nha Kỹ Thuật TTM). Đơn vị SOG đã tổ chức những hành quân biệt kích vượt biên qua Lào, Cambodia từ năm 1966. Việc huấn luyện kỹ thuật viễn thám cho chương trình Delta, thúc đẩy cơ quan MACV thành lập trường huấn luyện viễn thám (Recondo School) ở Nha Trang. Và cũng bắt đầu bằng chữ Hy Lạp (Greek), các chương trình khác được thành lập Sigma, Omega. Bài viết này tóm lược về sự thành lập, lịch sử của chương trình Delta.

II. TỔNG QUÁT
        Trong tháng Tám năm 1950, Hoa Kỳ gửi một ban cố vấn nhỏ sang Việt Nam, để giúp đỡ người Pháp trong việc huấn luyện quân nhân Việt Nam xử dụng, bảo trì quân dụng của Hoa Kỳ, qua dự luật Trợ Giúp Hỗ Tương Quốc Phòng (Mutual Defense Assistant Act) năm 1949. Đúng ra toán cố vấn này không làm việc quân sự mà là một bộ phận trong phái đoàn ngoại giao của Hoa Kỳ ở Saigon. Đến năm 1953, Hoa Kỳ có khoảng 200 hoặc 300 cố vấn tại Việt Nam.
        Được thành lập từ ngày 8 tháng Hai năm 1962, Bộ Chỉ Huy Quân Viện tại Việt Nam (MACV) được trao cho nhiệm vụ điều hành, kiểm soát, yểm trợ vấn đề tiếp vận cho số quân nhân cố vấn Hoa Kỳ, chuyên viên kỹ thuật, nhân viên đang gia tăng tại Việt Nam. Cơ quan MACV cùng với bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH là hai bộ chỉ huy, cho phép việc thành lập chương trình Delta. Trong năm 1965, cơ quan MACV được coi như bộ tư lệnh cho quân lực Đồng Minh, bộ phận mở rộng của Hoa Kỳ trong sứ mạng ngoại giao tại Việt Nam.
        Đơn vị Delta có thể được xử dụng trên nhiều chiến trường như: hành quân trong vịnh Vũng Rô, giải tỏa áp lực địch nơi trại LLĐB Đức Cơ, trận Tết Mậu Thân... Tuy nhiên nhiệm vụ chính cho hành quân Delta là trinh sát, viễn thám, trên bốn vùng chiến thuật.
        Hành quân Delta là sự kết hợp giữa một bộ chỉ huy B LLĐB Hoa Kỳ, bộ chỉ huy huấn luyện LLĐB Việt Nam và một tiểu đoàn Biệt Cách Dù. Bình thường, hành quân Delta đặt dưới quyền chỉ huy, xử dụng của một sư đoàn, và khu vực hoạt động rộng vào khoảng 2000, 3000 cây số vuông. Hành quân Delta có thể xử dụng không thám hoặc các toán biệt kích Delta xâm nhập để đạt mục tiêu.
        Quân Mũ Xanh Hoa Kỳ phục vụ trong chương trình Delta gồm 11 sĩ quan và 82 hạ sĩ quan, binh sĩ. Con số này có thể thay đổi, sau năm 1966, con số này tăng lên để lo vấn đề hành chánh, yểm trợ tiếp vận. Một đại đội 105 dân sự chiến đấu người Nùng được tuyển mộ để lo việc canh phòng, bảo vệ BCH Hành Quân Delta. Đại đội này có một trung đội đặc biệt, thường được đưa đến những khu vực thả bom (B-52) để thẩm định kết qủa trận không tập (BDA).
        Đội quân LLĐB Việt Nam phục vụ trong chương trình Delta gồm có 20 sĩ quan, 78 hạ sĩ quan, binh sĩ. Tất cả đều nằm trong BCH B-52. Ngoài ra có thêm một đại đội dân sự chiến đấu 123 người, tổ chức các toán “Chạy Đường Mòn” (Roadrunner), một trung đội thám sát và tiểu đoàn 81 (trước là 91) Biệt Cách Dù với 43 sĩ quan, 763 hạ sĩ quan, binh sĩ. Tiểu đoàn 81 Biệt cách Dù là lực lượng xung kích, tiếp ứng cho hành quân Delta (biệt kích). Tiểu đoàn này chia thành sáu đại đội, bốn đại đội nằm trong chương trình Delta, hai đại đội còn lại đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của vị tư lệnh LLĐB/VN.
        Đại đội “Chạy Đường Mòn” do một sĩ quan LLĐB/VN chỉ huy, có hai hạ sĩ quan LLĐB/HK làm cố vấn. Đại đội này có nhiệm vụ trinh sát, dò thám. Phương pháp để lấy tin tức địch quân là ăn mặc, trang bị vũ khí của địch, xâm nhập khu vực địch kiểm soát, di chuyển trên đường mòn, những lộ trình địch thường xử dụng.
        Trung đội “Thẩm Định trận Đánh Bom” (BDA) có 30 dân sự chiến đấu và hai hạ sĩ quan LLĐB/HK. Nhiệm vụ của trung đội này là đánh giá kết qủa trận đánh bom, không tập. Trung đội này còn làm nhiệm vụ đơn vị tiếp ứng khẩn cấp cho toán biệt kích Delta.
        Một sĩ quan LLĐB/VN chỉ huy và một hạ sĩ quan thâm niên LLĐB/HK làm cố vấn cho trung đội thám kích. Trung đội này có 12 toán viễn thám, tổng cộng 48 quân nhân LLĐB/HK và 72 quân nhân LLĐB/VN. Mỗi toán có 4 người Mỹ và 6 người Việt Nam. Trong chương trình Việt Nam hoá chiến tranh, có hai toán biệt kích Delta hoàn toàn LLĐB Việt Nam. Nhiệm vụ cho các toán viễn thám này là trinh sát, dò thám khu vực địch kiểm soát.
        Những yêu cầu xử dụng hành quân Delta phải do cấp quân đoàn gửi lên bộ TTM/QLVNCH và cố vấn trưởng quân đoàn gửi lên bộ tư lệnh MACV cứu xét. Những yêu cầu xử dụng hành quân Delta sẽ được cứu xét theo thứ tự ưu tiên, và cấp quân đoàn thường được xử dụng trong thời gian 30 ngày. Bộ tư lệnh quân đội Hoa Kỳ trong vùng chiến thuật xử dụng hành quân Delta phải cung cấp những nhu cầu cần thiết cho đơn vị Delta tăng phái. Sĩ quan tham mưu trong hành quân Delta sẽ phối hợp với đơn vị được tăng phái và thường giao cho Delta một khu vực hoạt động rộng khoảng chừng 2500 cây số vuông.
        Khi đến vùng hành quân, Delta sẽ thiết lập căn cứ hành quân tiền phương (FOB), thường nơi đầu một phi đạo (các toán biệt kích Delta cần trực thăng để xâm nhập cũng như triệt xuất) có thể đáp loại máy bay vận tải C-123. Nếu kiếm không ra phi đạo gần khu vực hoạt động, hành quân Delta sẽ thiết lập căn cứ yểm trợ tạm thời (MSS) để phi cơ C-123 đưa đơn vị Delta đến khu vực hành quân cùng với đồ tiếp vận cần thiết của họ. Thường căn cứ hành quân cho Delta phải được thiết lập trong vòng năm ngày.
        Khi đến căn cứ hành quân tiền phương, Delta sẽ xử dụng đủ mọi phương tiện để hành quân thám sát khu vực địch kiểm soát, gọi phi cơ oanh kích những căn cứ, hậu cần của địch khi các toán viễn thám tìm ra. Thẩm định kết qủa trận đánh bom, lùng và tiêu diệt địch quân, cứu tù binh, bắt cóc tù binh, để thẩm vấn lấy tin tức. Gắn máy nghe lén đường dây điện thoại, truyền tin, gài mìn bẫy trên lộ trình di chuyển của địch.
        Nhiệm vụ dò thám vẫn là chính yếu trong hành quân Delta. Toán biệt kích Delta thường xâm nhập vào vùng địch lúc xế chiều, trời sắp tối với bốn trực thăng chở quân và hai trực thăng võ trang yểm trợ. Sáu chiếc trực thăng bay vào bãi đáp thả biệt kích theo đội hình một hàng dọc, trực thăng chỉ huy dẫn đầu, theo sau là trực thăng chở toán biệt kích Delta, tiếp theo là hai chiếc để cấp cứu, trường hợp khẩn cấp (có địch xuất hiện nơi bãi đáp), cuối cùng mới là hai trực thăng võ trang, bay theo hộ tống. Viên phi công lái trực thăng chỉ huy, sẽ chịu trách nhiệm tổng quát, chuyến thả biệt kích, anh ta sẽ hướng dẫn (ra lệnh) cho chiếc chở toán biệt kích vào bãi đáp. Toán biệt kích có thể nhẩy ra khỏi trực thăng, xuống bằng dây, hoặc bằng thang dây. Trong thời gian thả toán biệt kích, hai trực thăng võ trang có nhiệm vụ bao vùng, để ý dấu hiệu của địch nơi bãi đáp và khu vực xung quanh. Hai trực thăng cấp cứu cùng với trực thăng chỉ huy bay trên một độ cao quan sát, đề phòng trường hợp phải thâu hồi toán biệt kích khẩn cấp (địch xuất hiện tại bãi đáp, trực thăng đổ quân bị bắn rơi...). Ngoài ra còn có thêm một máy bay quan sát (L-19, FAC) bay bao vùng, theo dõi việc thả toán biệt kích. Trường hợp khẩn cấp, chiếc FAC sẽ điều động các phi tuần phản lực hoặc khu trục lên đánh để thâu hồi toán biệt kích. Sau khi toán biệt kích đã vào vùng an toàn, sáu trực thăng lại phải làm tối thiểu một chuyến tương tự trên một bãi đáp khác để đánh lạc hướng của địch.
        Những toán biệt kích Delta thường đánh lừa địch bằng cách gửi những điện văn sai lạc đến đài tiếp vận, thường là máy bay thám thính bao vùng, rồi chuyển tiếp về căn cứ hành quân tiền phương. Trường hợp khám phá ra vị trí có địch, sẽ phải báo cáo ngay. Các toán biệt kích “chạy đường mòn” thường giả là người thuộc đơn vị địch, với những câu chuyện ngụy tạo.
        Kỹ thuật triệt xuất, thâu hồi toán biệt kích cũng tương tự như lúc thả toán xâm nhập. Khó khăn do vấn đề thời tiết, vị trí bãi đáp và địch quân. Đầu tiên, phi cơ thám thính (FAC) sẽ bay vào vùng, tìm kiếm vị trí chính xác của toán biệt kích, tiếp theo là trực thăng chỉ huy sẽ vào gửi tín hiệu nhận diện, rồi trực thăng để “bốc” toán biệt kích sẽ vào. Trực thăng võ trang vẫn tiếp tục bay theo bảo vệ. Trường hợp cần thiết, chiếc FAC có thể điều động các phi tuần lên oanh kích, giải vây cho toán biệt kích.
        Ngoài sự tính toán từ trước, xắp xếp hành quân tấn công theo kiểu Biệt Động Quân. Đơn vị xung kích tiếp ứng chỉ được xử dụng tùy theo mức độ chạm súng với địch của toán biệt kích Delta trong vùng địch kiểm soát. Đơn vị được đưa vào tiếp ứng đầu tiên là trung đội “thẩm định trận đánh bom” (BDA), tiếp theo là một đại đội thuộc tiểu đoàn 81 Biệt Cách Dù. Các đại đội còn lại sẽ vào sau nếu thấy cần thiết. Trường hợp chiến trường trở nên rộng lớn, đơn vị bộ binh trong vùng trách nhiệm sẽ được xử dụng.

III. KHỞI THỦY
        Đầu năm 1964, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tại Việt Nam nhận nhiệm vụ huấn luyện và trợ giúp thành lập những toán biệt kích để dò thám những mục tiêu nằm trên phần đất Lào. Dưới quyền chỉ huy của trung tá George A. Viney, ông ta chọn một toán quân nhân LLĐB do đại úy William J. Richardson Jr. cầm đầu, bắt đầu huấn luyện sắc dân thiểu số thuộc nhiều sắc tộc khác nhau cùng với quân nhân LLĐB/VN. Toán LLĐB/HK huấn luyện kỹ thuật trinh sát, viễn thám, nhẩy dù xuống vùng địch. Sau khi hoàn tất khóa huấn luyện, các quân nhân LLĐB/VN sẵn sàng xâm nhập vào đất Lào. Đó là hành quân Leaping Lena.
        Hành quân “Leaping Lena” là danh hiệu cho các chuyến xâm nhập vào đất Lào, dò thám đường mòn HCM, các binh trạm, cơ sở, hậu cần của quân đội Bắc Việt đóng ở bên Lào. Sau khi huấn xuyện xong, mỗi toán biệt kích gồm có tám người với một cố vấn LLĐB/HK. Tổng thống Johnson chấp thuận cho những cuộc hành quân vượt biên nhưng không muốn có thêm cố vấn Hoa Kỳ trong các toán biệt kích.
        Trong thời gian từ ngày 24 tháng Sáu đến 1 tháng Bẩy năm 1964, năm toán biệt kích với đồ trang bị đầy đủ nhẩy dù xuống vùng rừng núi trên đất Lào, dọc theo đường số 9 hướng tây Tchepone. Mỗi toán biệt kích gồm tám quân nhân LLĐB Việt Nam và mỗi toán có một nhiệm vụ, khu vực hoạt động riêng biệt.
        Hai toán xâm nhập nơi hướng bắc đường số 9, gần đường 92. Ba toán xâm nhập nơi hướng nam, về hướng Muong Nong. Khu vực này được chọn để xâm nhập, dò thám vì rừng núi rậm rạp. Mặc dầu các quân nhân LLĐB/VN đã được mặc bộ quần áo đặc biệt (Smokey Jump Suit) chống cây nhọn đâm vào người, vẫn có một người chết khi cắt dây dù vướng trên ngọn cây để leo xuống và bẩy người khác bị thương (trật chân...).
        Thiếu các cố vấn Hoa Kỳ trong các toán biệt kích, số phận của hành quân Leaping Lena đen tối. Mặc dầu trong lúc huấn luyện, các biệt kích Leaping Lena đã được dặn dò phải tránh xa những làng mạc trong khu vực. Tuy nhiên hết thực phẩm đem theo, họ vào các làng tìm đồ ăn và bị giết hoặc bắt sống. Chỉ có năm người trốn thoát và được triệt xuất.
        Năm quân nhân LLĐB trở về báo cáo trông thấy địch quân cấp đại đội, và tất cả các cây cầu trên đường số 9 đều có người canh gác, có lẽ quân Pathet Lào. Mỗi toán biệt kích trong hành quân Leaping Lena đều có nhiệm vụ đặc biệt, ghi nhận tin tức các hoạt động của địch, bao gồm số lượng xe cộ di chuyển, pháo binh và các quân dụng nặng của địch. Ngoài ra họ còn phải nhận diện quân số, đơn vị của địch quân.
        Mặc dầu hành quân Leaping Lena được xem như thất bại, nhưng tin tức về quân đội Bắc Việt bên Lào do năm người sống sót đem về... đã nhiều hơn những gì Bộ Tư Lệnh Quân Viện MACV đã biết. Điều rõ ràng là có mặt quân đội Bắc Việt, cùng với trang bị của họ trong khu vực dò thám. Mỗi một khúc quanh, mỗi chiếc cầu đều có hai người canh gác. Nhiều đường mòn đã được xây dựng, cho xe cộ, binh lính di chuyển trong khu vực mà các phi cơ thám thính không thể nào nhìn thấy được vì rừng núi rậm rạp. Đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn của địch đã được trông thấy tận mắt, có đơn vị di chuyển vào phần đất nam Việt Nam nơi hướng tây Khe Sanh. Điều này đã được phối kiểm với phi hành đoàn trực thăng vào điểm hẹn để “bốc” toán biệt kích.    
        Ngoài ra, những quân nhân trở về báo cáo nhìn thấy khoảng 30 thuyền tam bản để đưa cấp đại đội địch quân qua sông. Nhìn chung, các quân nhân tham dự hành quân Leaping Lena đều chứng minh có sự hoạt động rất tích cực của quân đội Bắc Việt trên đất Lào.
        Ngày 12 tháng Sáu năm 1964, bộ chỉ huy B1/110 và toán A1/111 thuộc liên đoàn 1 LLĐB/HK được gửi từ Okinawa sang làm việc tạm thời trong vòng 180 ngày tại Việt Nam. Trước đó vài hôm thiếu tá Frederick Patton cùng với thượng sĩ Robert Mattox qua trước để quan sát tình hình. Đơn vị LLĐB Hoa Kỳ này được đưa vào hành quân Delta và nhiệm vụ đầu tiên được trao phó cho họ là đi tìm cứu những quân nhân LLĐB/VN, nếu vẫn còn sống sót sau hành quân Leaping Lena.    
        Hành quân Delta đã dựng xong một “Phố Lều” (tent city), để khi toán quân thuộc LĐ1/LLĐB/HK qua sẽ có chỗ làm việc ngay tức khắc. BCH B/LLĐB cùng với nửa toán A đóng trong “Phố Lều”, nửa toán A còn lại đến căn cứ Động Ba Thìn, đang có ba đại đội xung kích, tiếp ứng chờ đợi. Một nửa đại đội xung kích sắc dân người Nùng được trao nhiệm vụ canh gác, bảo vệ “Phố Lều”, bộ chỉ huy hành quân Delta. Một nửa kia di chuyển đi Nha Trang thụ huấn khóa LLĐB cùng với LLĐB/VN.
        LLĐB/HK huấn luyện LLĐB/VN kỹ thuật tuần tiễu, dò thám, kỹ thuật nhẩy xuống từ trên cây cao (bài học Leaping Lena, dù vướng trên ngọn cây cao). Trung úy Don Snider là một huấn luyện viên rất khó khăn, cứng rắn. Ngày 19 tháng Sáu, khóa huấn luyện mới được có năm ngày, 14 trong số 18 quân nhân LLĐB/VN bỏ cuộc. Các quân nhân đó được cấp chỉ huy LLĐB/VN điều động đi Động Ba Thìn làm việc.
        Trong khi chờ đợi huấn luyện thêm số toán biệt kích, trung úy Don Snider huấn luyện thêm về kỹ thuật nhẩy dù căn bản và cao cấp. Bãi nhẩy dù không xa Nha Trang và tương đối an ninh. Kỹ thuật xâm nhập với các toán biệt kích bốn hoặc tám người. Kỹ thuật nhẩy dù ở cao độ thấp trong lúc xâm nhập, khó cho địch quân khám phá. Mặc quần áo “Smokey Jump Suit” để nhẩy dù xuống những khu vực rừng núi rậm rạp. Phương pháp chôn dấu, phá hủy dụng cụ khi xuống tới đất và tập họp toán biệt kích.
        Khi xâm nhập vào mục tiêu, toán biệt kích được huấn luyện kỹ thuật xâm nhập, dò thám đường mòn, báo cáo, và di chuyển đến gần một trại LLĐB biên phòng để triệt xuất.
        Khoá huấn luyện sẽ có một buổi thực tập nhẩy dù ở Nha Trang. Tiếp theo là một tuần lễ trên vùng cao nguyên, thực tập kỹ thuật xâm nhập ban đêm, nhẩy dù với cao độ thấp. Cuối cùng là tuần tiễu thám thính ba hoặc năm ngày dọc theo biên giới. Mỗi chuyến thực tập thường có một hay hai quân nhân LLĐB/HK đi theo. Giai đoạn cuối, chúng tôi đưa toán biệt kích đến một trại LLĐB biên phòng, thường là khu vực tam biên, để từ đó họ xâm nhập vào đất Lào.
        Trong thời gian người Thượng nổi loạn trên vùng cao nguyên vào năm 1964, LLĐB trong hành quân Delta được lệnh soạn thảo một cuộc hành quân đặc biệt đặt tên là Snatch (Bắt Cóc). Họ được đưa lên Ban Mê Thuột ngày 26 tháng Chín, để biểu dương lực lượng trong buôn Sa Par. Sau đó một trực thăng đáp xuống cách buôn Thượng khoảng 500 thước, đem theo một người thương thuyết, đó là chuẩn tướng William E. DePuy, trưởng phòng 3 bộ tư lệnh MACV. Ông ta đến thương thuyết để người Thượng trả tự do cho những quân nhân LLĐB/VN bị bắt làm con tin. Sau đó đơn vị đặc nhiệm này được đưa về Nha Trang. Trong trại LLĐB Động Ba Thìn, các đại đội xung kích Nùng đã được báo động, chuẩn bị đi hành quân trên vùng cao nguyên, nhưng may mắn, chuyện đó không xẩy ra.  
        Một hành quân khác trong chương trình Delta năm 1964 cũng được báo cáo. Đó là chuyến hành quân cứu tù binh trong khu vực núi Bà Đen ở Tây Ninh, nhưng không tìm thấy tù binh thuộc quân lực Đồng Minh.
        Vào ngày 9 tháng Mười Hai năm 1964, trên bán đảo kéo dài về hướng đông nam quận Ninh Hòa. Ba toán biệt kích Delta xâm nhập vào trong một ngôi làng tình nghi có VC hoạt động. Hai toán bị khám phá khi xâm nhập, một toán thành công, đem về một tù binh và nhiều tin tức.
        Toán 1: chạm súng với cấp đại đội của địch lúc 15:58 ngày 10 tháng Mười Hai. Súng của địch bắn lên làm trực thăng không đáp xuống “bốc” toán biệt kích được. Kết quả hai biệt kích quân trong toán chạy lạc trong lúc di chuyển. Toán biệt kích sau đó chạy thoát đến một điểm hẹn khác, gặp lại hai người thất lạc. Cả toán biệt kích được triệt xuất, đem về an toàn. Nơi “bốc” toán biệt kích là một mỏm núi, trực thăng chỉ đáp được một bên, và nhân viên phi hành phải kéo lên từng người một.
        Toán 2: xâm nhập vào thung lũng, sau đó di chuyển ra đến bãi đáp để triệt xuất. Khi trực thăng đến, VC bắn lên dữ dội, làm chiếc trực thăng phải bay ra chỗ khác. Ba biệt kích quân bị hỏa lực của địch bắn, nằm kẹt nơi bãi đáp, phần còn lại của toán biệt kích Delta ẩn nấp sau một hào sâu. Nghĩ rằng ba người kia đã chết, họ rút lui, di chuyển ra khu vực khác. Trong khi đó trực thăng võ trang bay vào bắn yểm trợ xung quanh bãi đáp, để cho ba quân nhân biệt kích chạy ra khỏi bãi đáp, tìm đường rút lui.
        Chuyện đó xẩy ra hôm 11, cho đến ngày 14 tháng Mười Hai toán biệt kích Delta mới được cứu thoát. Trong thời gian đó, lợi dụng đêm tối, trời mưa, ba người lính biệt kích thất lạc bò vào trong vùng địch kiểm soát. Cả ba người lẩn trốn, đợi đến đem tối bò trở ra, dùng máy liên lạc, yêu cầu trực thăng vào “bốc”. Ba người được chỉ điểm, di chuyển đến một bãi đáp nằm gần một góc phiá xa ngôi làng. tất cả được cứu thoát, trong đó có một người bị thương được đồng đội dìu đi trong bóng đêm, ngoài trời mưa.
        Cũng trong tháng Mười Hai năm 1964, liên đoàn 5 LLĐB/HK chính thức qua Việt Nam thay thế liên đoàn 1 LLĐB. Thiếu tá Art Strange nhận quyền chỉ huy, điều hành chương trình Delta. Một người trong toán A, đại úy Thomas Pusser, sau này tử trận Plei Me.
        Cho đến thời điểm này, liên đoàn 1 và liên đoàn 7 LLĐB/HK là những người đầu tiên góp phần xây dựng chương trình Delta, và trước đó là hành quân Leaping Lena.

Dallas, TX.
vđh







HÀNH QUÂN BIỆT KÍCH RAPID FIRE
David C. Spencer



Lời nói đầu: Hai toán biệt kích bị hỏa lực địch đàn áp nhưng chỉ cứu được một toán. Một quyết định khó khăn phải làm.



        Minh Thạnh là làng nhỏ bao bọc trong một khu rừng sao su bát ngát, từng hàng, từng hàng cây cao su bao quanh. Gần đó có một trại Lực Lượng Đặc Biệt do một toán A trấn đóng, được xây dựng dưới những rặng cây cao. Về hướng bắc và hướng đông căn cứ là những cánh rừng cao su mênh mông. Về hướng tây và hướng nam, có những khoảng đất trống trải với cỏ tranh và những bụi cây rộng lớn.

        Khu đồng trống, cỏ tranh rất dễ bị lầm lẫn. Trông có vẻ phẳng nhưng có chỗ cỏ tranh chỉ cao hơn đầu gối, chỗ khác lại cao hơn đầu người. Những bụi cây lớn, thực ra là những khoảnh vườn trồng cây và bụi rậm.

        Những cánh đồng như thế có thể che dấu một đạo quân. Trong mùa hè và mùa thu năm 1967, có tin đồn và tin tình báo cho biết trung đoàn 271 VC đang hiện diện trong khu vực xung quanh làng Minh Thạnh. Giữa tháng Mười, 1967, tiểu đoàn 2, trung đoàn 28, sư đoàn 1 BB Hoa Kỳ mở cuộc hành quân tảo thanh, và họ xác nhận nguồn tin tình báo là đúng (sự hiện diện của trung đoàn 271 VC). Tiếp theo các đơn vị Hoa Kỳ mở hành quân truy kích đám quân VC ra khỏi vùng trách nhiệm. Rồi thì một trận đánh lớn xẩy ra, có thể đơn vị Hoa Kỳ bị rơi vào ổ phục kích, các đại đội tác chiến cùng với ban chỉ huy tiểu đoàn 2, đại đội chỉ huy công vụ bị tổn thất nặng.

        Trong số những quân nhân tử trận có trung tá Terry de la Mesa Allen, ông ta là con trai của vị tư lệnh sư đoàn 1 BB Hoa Kỳ trong trận thế chiến thứ hai (The Big Red 1), và thiếu tá Donald W. Helleder, tốt nghiệp trường võ bị West Point, đã được chọn trong đội tuyển football quốc gia (to con), và nhiều thanh niên trẻ Hoa Kỳ.

        Tiếng vang của trận đánh vẫn còn chấn động, mặc dầu trung đoàn 271 VC đã rút về nơi ẩn náu. Những toán viễn thám của LLĐB và sư đoàn 1 BB/HK lùng kiếm trung đoàn địch không ra. Dường như chúng biến mất trong không gian.

        Một nhiệm vụ thám sát đặc biệt được giao phó cho B-36 LLĐB, qua một loạt hành quân Rapid Fire bắt đầu từ tháng tám năm 1967 với Rapid Fire I (1) kéo dài đến Rapid Fire IX (9) trong tháng Năm 1968.

        Từ lúc ban đầu hành quân Rapid Fire, toán biệt kích chúng tôi thuộc B-36 LLĐB gồm có: tôi, binh nhất Patrick Wesson, binh nhất William “Billy” Miller, và ba người lính đánh thuê người Miên, Đại Minh, Song (“Big Cowboy”), và “Old Man”. Trong tháng Mười, chúng tôi được lệnh thám sát khu vực Minh Thạnh trong hành quân Rapid Fire II. Hai toán biệt kích sẽ xâm nhập cùng lúc, toán chúng tôi được thả xuống gần ngôi làng. Toán biệt kích của Trung sĩ Wallace “Walt” Handwerk và toán của tôi, sẽ vào vùng địch để kiểm chứng sự “đánh hơi”. Việc này do phi cơ lấy trong không khí để tìm hóa chất methane thải ra từ những nguồn hữu cơ: người, vật, thảo mộc, dù sống hay đã chết. Mặc dầu với sự tiến triển của khoa học, vẫn cần có người ở dưới đất, vào vùng kiểm chứng.

        Nhận được lệnh hành quân, chúng tôi kiểm soát lại ba lô, dụng cụ đem theo trước khi lên đường xâm nhập vào khu vực xung quanh làng Minh Thạnh. Chúng tôi cẩn thận xem lại những dụng cụ quan trọng như điạ bàn, bản đồ, gương cấp cứu để chỉ điểm cho máy bay.

        Tất cả đơn vị tham dự hành quân, trong đó có toán biệt kích chúng tôi, được phi cơ vận tải C-123 đưa đến trại LLĐB Minh Thạnh vào sáng hôm sau. Trong lúc các dân sự chiến đấu cùng với các cố vấn Mũ Xanh của họ lo thiết lập căn cứ hành quân, dựng lều, căng hàng rào kẽm gai, đào công sự phòng thủ, hầm vệ sinh, v.v... hai toán biệt kích A-361, A-362 lên đường thám sát.

        Toán A-361 dưới quyền toán trưởng Pat “Hulk” Martin khám phá ra một binh trạm của VC và bị địch truy kích. Toán biệt kích chạy đến một hố bom làm chỗ chống cự với địch cho đến khi trực thăng võ trang cùng với trực thăng cấp cứu đến, dùng dây cấp cứu McGuire câu về căn cứ. Toán A-362 của Damien Kowaleski xâm nhập mà không bị địch phát giác. Toán biệt kích tìm thấy một binh trạm cỡ lớn của địch có nhiều đường mòn ra vào. Nhiều đường mòn nằm gần nhau, không thể nằm lại để dò thám, nên trưởng toán Kowaleski xin trực thăng đến đem về.

        Toán biệt kích của tôi cũng thuộc A-362, biệt danh “Alice”, lên đường xâm nhập lúc 1 giờ chiều ngày hôm sau. Cấp chỉ huy đã kẻ một lằn ranh giới, toán của tôi có nhiệm vụ thám sát khu vực từ lằn ranh lên hướng bắc, toán biệt kích A-361 của Handwerk sẽ dò thám về hướng nam.

        Tôi ra lệnh cho toán viên di chuyển chậm, cẩn thận, dự trù sẽ vào đến khu vực “đánh hơi” ngày hôm sau để lục soát, kiểm chứng. Sau khi xuống bãi đáp an toàn và báo cho trực thăng dấu hiệu “OK” để họ bay về, chúng tôi di chuyển chừng năm phút đã gặp một đường mòn. Con đường mòn lớn hơn ba bộ (feet), cỏ vẫn chưa chết hẳn, chứng tỏ nhiều người mới di chuyển trên đường vào khoảng vài giờ đồng hồ. Tôi liên lạc với máy bay thám thính đang bao vùng để xin xác nhận chính xác điểm đứng.

        Điạ thế khu vực rất khó do thám, Cỏ tranh không đủ rậm để che chở toán biệt kích và cũng khó quan sát, chỉ khi nào đối tượng đã đến thật gần mới trông rõ, lúc đó đã quá muộn. Chúng tôi di chuyển ra nơi khác, được khoảng chừng năm mươi thước lại gặp một đường mòn khác cũng rộng rãi, vừa có người đi qua như con đường trước. Chúng tôi tạm dừng, không phải để dò thám mà để canh chừng có địch quân theo dõi. Rồi một đường mòn khác... đường khác. Chúng tôi tìm thấy tất cả bẩy con đường mòn trong khu vực thám sát.

        Cuối cùng, toán biệt kích đến một khu rừng rập lúc trời sắp tối. Chúng tôi tìm chỗ nghỉ qua đêm, gần con đường mòn để dò thám. Tôi lấy cần antena tự chế để liên lạc với đài tiếp vận trên núi Bà Đen, chợt hai tên VC xuất hiện trên con đường mòn đi ngang qua chỗ toán biệt kích đang ẩn nấp. Họ không đi song song để nói chuyện, tên đi trước thấp hơn, mặc quần short, áo mầu sậm, đội trên đầu cái nón đã tả tơi không còn hình dáng, vai đeo khẩu súng AK-47. Tên đi sau cao hơn, mặc quần short mầu sậm, áo xám, cầm khẩu Mauser 98K.

        Hai tên VC đi từ hướng tây nam lên, họ đi đứng tự nhiên trong “giang sơn” của họ. Tên đi sau bỗng dừng lại nhìn về phiá bụi cây toán biệt kích đang núp. Chúng tôi có thể bắn gục hết cả hai, nhưng nhiệm vụ của toán biệt kích là dò thám, tránh đụng độ. Tôi báo lên máy bay quan sát Smokey.

-          Chúng tôi bị hai tên VC trông thấy.

-          Anh có chắc chắn không?

-          Hai bên chạm trán nhau gần lắm, tôi có thể nhổ nước miếng trúng nó...

-          Vậy thì các anh nên rút

        Chiếc máy bay quan sát cho chúng tôi tọa độ một bãi đáp gần đó, đúng lúc tôi  nghe có nhiều tiếng người nói lớn cách chỗ trú ẩn khoảng năm mươi thước, rồi tiếng bình bịch, sau này tôi mới nhận định ra tiếng địch quân bỏ ba lô xuống đất để giao tranh.

-          Nhiều tiếng người nói cách chỗ tôi chừng năm mươi thước về hướng bắc.

-          Chạy, đừng bước chậm chạp.

        Tôi đeo ba lô lên vai, chỉ tay về hướng tây nam nơi có bãi đáp, rồi nói với toán viên.

-          Nhanh lên.

        Tôi dẫn đầu, mọi người chạy theo sau. Và có tiếng địch quân đuổi theo phiá sau. Tôi ra lệnh cho mọi người tiếp tục chạy, còn tôi đứng lại gài quả mìn Claymore, rôi chạy theo sau. Trong khi đang kéo sợi dây điện để bấm quả mìn, người lính Miên tên Đại Minh vẫn còn đứng chờ tôi, quạt một băng đạn vào một bụi cây.

        Tôi vội vàng xách quả mìn chạy theo Đại Minh. Ra gần đến khoảng đất trống trải, tôi thấy toán biệt kích đang bố trí sau hàng cây sát bãi đáp trực thăng. “Old Man” la lên một câu tiếng Miên, đồng thời nổ súng bắn về phiá đằng sau tôi và Đại Minh. Trông thấy gần đó có một ụ đất nhô lên cao, tôi la lớn cho mọi người biết rồi cùng Đại Minh chạy nhanh lại, nhẩy ra đằng sau, đúng lúc súng của địch nổ vang dội khu rừng.

        Billy Miller cùng với “Old Man” bắn hàng loạt về hướng đông bãi đáp, Pat Wesson và “Big Cowboy” thủ phiá bắc. Quan sát về hướng tây, thấy có bóng dáng người, tôi quạt khẩu M-16 cho đến khi hết đạn, rồi cho một băng đạn mới vào. Tôi gọi máy bay quan sát Smokey.

-          Chúng tôi đã ra đến bãi đáp. Gọi trực thăng võ trang (gunships) và chiếc “slick” để bốc bọn tôi.

-          Tôi thấy các bạn tác xạ vũ khí.

-          Chúng tôi bị bắn, nên trả đũa.

-          Có bị tổn thất gì không?

-          Không.

-          Tôi sẽ gọi trực thăng võ trang đến.

-          Bạn có cần khói mầu không? (để đánh dấu mục tiêu)

-          Không.

        Tôi nghe tiếng máy bay thám thính bay đi rồi “phụp”, một qủa đạn khói mầu trắng nổ trên đầu những rặng cây. Tôi nghe tiếng chiếc máy bay quan sát điều động hai chiếc trực thăng Cobra oanh kích mục tiêu.

-          Roger. Đánh dọc theo hàng cây từ đông sang tây bằng đại liên thôi. Quân bạn ở sát hàng cây ngay mô đất trong khoảng đất trống.

        Hai chiếc Cobras bay xà xuống bắn đại liên, chúng tôi ở dưới nghe điếc tai và ngửi thấy mùi khét của thuốc súng. Chiếc máy bay quan sát, trấn an báo cho biết.

-          Chiếc “slick” đang trên đường đến đón các bạn.

        Chúng tôi nghe tiếng trực thăng đang bay đến, mọi người đều thở ra nhẹ nhõm, mỉm cưới. Chợt có tiếng súng của địch bắn lên ngay trước mũi chiếc trực thăng chở quân. Viên phi công vội vàng đổi hướng 90 độ bay ra khỏi khu vực nguy hiểm. Pat, Đại Minh và tôi lập tức bắn vào những bụi cây nghi ngờ địch đang nấp bắn lên trực thăng.

        Qua máy truyền tin, tôi được biết anh chàng phi công trực thăng “lạnh cẳng” than phiền với máy bay quan sát rằng, bãi đáp không được an ninh, và nhỏ hẹp có một cây cao ở giữa. Tôi cho là đúng phần nào, tôi nhìn thấy cây cao đó nhưng vẫn dư sức đáp. Lúc đó địch quân bắn vào ụ đất nơi đám biệt kích đang nấp. Tôi gọi máy bay thám thính.

-          Smokey, Smokey. Đây Alice gọi.

-          Nói đi Alice.

-          Có chuyện gì với chiếc “Slick”?

-          Anh ta “lạnh cẳng” vì bị bắn từ dưới đất. Tôi sẽ cho gunships làm bụi tung lên dọc theo hàng cây rồi bảo chiếc “Slick” quay trở lại.

        Chuyện này sẽ không bao giờ có. Anh chàng phi công chết nhát tìm đủ cớ để tránh né không xuống bãi đáp. Mặt trời từ từ khuất bóng, chúng tôi biết rằng nguy hiểm sẽ đến vì cấp cứu ban đêm khó khăn hơn nhiều.

        Trong khi đó toán biệt kích của Handwerk cũng lâm vào tình trạng nguy kịch. Anh ta đã báo cáo có dấu hiệu hoạt động của địch bên hông lộ trình di chuyển của toán, rồi ở đằng trước. Handwerk yêu cầu cho toán triệt xuất. Sau đó toán biệt kích Handwerk di chuyển đến một bãi đất trống chờ trực thăng đến “bốc”.

        Phải có những quyết định nhanh chóng. Địch quân gia tăng áp lực xung quanh bãi đáp của chúng tôi. Trực thăng võ trang Cobra đã phải đánh mấy tours để làm giảm áp lực của địch. Nếu không có mấy chiếc này, địch sẽ tràn ngập vị trí của toán biệt kích dễ dàng.

        Lúc đó tôi nghe được giọng nói của viên phi công trên chiếc máy bay thám thính nói với trưởng toán biệt kích Handwerk. Mà sau này nghĩ lại chưa chắc tôi dám quyết định. Anh ta cho Handwerk biết tình trạng của toán tôi. Trưởng toán biệt kích Handwerk bình tĩnh trả lời.

-          Tôi không cần cấp cứu. Cứ lo cho toán kia. Chúng tôi tự lo liệu lấy, lẩn tránh địch quân. OK? Chúc may mắn.

-          Tôi hiểu.

        Tôi đưa cho Pat cái đèn pin chiếu lên trời để cho máy bay nhận rõ vị trí toán biệt kích. Trong khi máy bay thám thính bao vùng tiếp tục điều động các phi tuần trực thăng võ trang Cobra lên đánh giải vây cứu toán biệt kích, đại úy Swain, quyền chỉ huy B-36 LLĐB cũng ngồi trên một chiếc trực thăng khác bay lên. Ông ta hỏi viên phi công lái máy bay thám thính tình trạng của toán biệt kích.

-          Cũng như một trận Little Bighorn nhỏ (trận này lữ đoàn 7 Kỵ Binh Hoa Kỳ bị người Da Đỏ tiêu diệt).

-          Xin nói lại cho rõ.  (Đại úy Swain)

-          Bọn VC đang bao vây bãi đáp cũng như người Da Đỏ bao vây Tướng Custer.

        Đại úy Swain nhanh chóng liên lạc với thiếu tá Hatfield, chỉ huy đại đội trực thăng (Lục quân Hoa Kỳ có đơn vị trực thăng) cơ hữu.

-          Big Daddy. Đây là Marauder (biệt danh của Đ/úy Swain, tên một đơn vị BĐQ/HK trong trận đệ nhị thế chiến)

-          Đây là Big Daddy.

-          Ông phải ra lệnh cho phi công trực thăng của ông “vào”, chúng tôi không còn thời gian.

-          Không được. Tôi sẽ không để cho phi công của tôi vào.

-          Nếu vậy tôi sẽ đưa chiếc C&C (trực thăng chỉ huy, ông ta đang bay) này “vào”.

        Đại úy LLĐB Swain, nói là làm... không nói “lung tung”. Thiếu tá Hatfield vội lên tiếng.

-          Không được. Làm chuyện gì cũng phải đúng thủ tục.

-          Tôi không thể để mất binh sĩ của tôi.

        Viên phi công “gà chết” chắc cũng nghe được lời đối thoại trên hệ thống truyền tin. Anh ta yêu cầu toán biệt kích di chuyển đến một bãi đáp khác. Tôi nói Pat tiếp tục chiếu đèn pin lên trời để các phi cơ nhận ra vị trí quân bạn. Trong toán biệt kích Pat (Patrick) Wesson là người lúc nào cũng vui vẻ lạc quan, tin cậy được. Miller có vẻ lo sợ, lên tiếng hỏi “Tôi sẽ chết ở đây?” Nghĩ đến toán của Handwerk, tôi băn khoăn không biết số phận của họ ra sao. Tôi trấn an anh ta.

-          Anh sẽ thoát. Tất cả chúng ta sẽ được cứu.

        Mấy người biệt kích Miên, không hiểu, nhưng thấy nét mặt vui của Miller, họ cũng lên tinh thần. Đại Minh nói với tôi “Trực Thăng”. Trong khi đó, hai trung sĩ LLĐB “chứng tỏ” tình chiến hữu, lo lắng cho toán biệt kích ở dưới. Trên chiếc trực thăng chỉ huy (C&C), trung sĩ Paul Grillo, y tá nhưng rất can đảm, gốc rễ từ bờ biển miền đông Ý Đại Lợi, rút khẩu Colt-45 ra chỉa vào đầu viên phi công. (Vào bốc toán biệt kích! Nếu không chúng ta cùng chết!).

        Trong trung tâm hành quân, trung sĩ nhất Ernie Snyder tập họp một đơn vị đi tiếp cứu, trang bị đại liên M-60, M-79 và M-16, sẵn sàng lên đường. Đúng lúc đó, trên máy truyền tin thiếu tá Hatfield nhượng bộ, ông ta nói với đại úy LLĐB Swain.

-          Thôi được, để đích thân tôi vào.

-          Cám ơn và chúc may mắn.  (Đại úy Swain)

        Thiếu tá Hatfield gọi toán biệt kích.

-          Tôi đang ở hướng nam của bạn. Tôi trông thấy đèn của bạn. Tôi tắt-mở đèn bay, bạn nhìn thấy cho biết.

        Tiếng trực thăng nghe rõ dần rồi dèn dưói bụng trực thăng tỏa ánh sáng làm lóe mắt mọi người, cả VC. Chúng tôi nhanh nhẹn leo lên trực thăng. Tôi la lớn cho nhân viên phi hành.

-          Dọt lẹ!

-          Mọi người lên hết chưa?

-          Đủ cả rồi. Dọt lẹ đi!

        Hôm sau chúng tôi được tin mừng, toán biệt kích của Handwerk cũng được bốc về an toàn.



Theo tài liệu: David C. Spencer “Rapid Fire Recon...”, Vietnam Magazine, June 1997, pages: 46-52.

Dallas, TX.

vđh


HÀNH QUÂN RAPID FIRE I
David C. Spencer

        Chương trình Rapid Fire do B-36 Lực Lượng Đặc Biệt đề xướng, bắt đầu với hành quân Rapid Fire I, kể từ ngày 5 tháng Chín năm 1967. Chúng tôi đã cho xâm nhập vào vùng hành quân dò thám, bắt tù binh bằng các toán biệt kích sáu người, trung đội xung kích Hatchet hai mươi người. Thành phần tham dự hành quân gồm các toán A LLĐB, A-361 và A-362 và các toán viễn thám thuộc sư đoàn 1/HK, sư đoàn 9/HK, sư đoàn 25/HK, trung đoàn 11 Kỵ Binh/HK, lữ đoàn nhẹ 199/HK và lính đánh thuê người Miên, làm việc cho LLĐB/HK.
        Mặc dầu đến từ nhiều đơn vị khác nhau, nhưng tất cả đều là các đơn vị Lục Quân Hoa Kỳ nên sự chỉ huy thống nhất, dưới quyền Quân Đoàn II/HK. Quân đoàn này hoạt động trong vùng trách nhiệm của Quân Đoàn III/VNCH.
        Một trong những đơn vị bộ binh Hoa Kỳ, sư đoàn 25 gửi một yêu cầu đến B-36 LLĐB cho một toán biệt kích vào do thám khu vực “I-99”. Khu vực này có điạ thế cao hơn sông Saigon, và mới đây VC đã pháo kích hỏa tiễn 140 ly vào căn cứ của sư đoàn 25 BB/HK ở Tây Ninh. Vị sĩ quan trưởng phòng 2 sư đoàn tin rằng, địch đã đặt dàn phóng trong khu vực đó. Do đó họ yêu cầu cho một toán biệt kích vào tìm kiếm dấu vết của địch.
        Đây là một cuộc hành quân cấp bách, đôi khi không có một lý do vững chắc. Nhiệm vụ này đươc trao phó cho trung sĩ Dallas Pridemore, và anh ta chọn những quân nhân có kinh nghiệm để lập toán biệt kích. Pridemore mời tôi vào trung tâm hành quân họp hôm 14 tháng Chín. Như thường lệ, nơi này lúc nào bận rộn người ra vào như tổ ong. Pridemore nói “Tôi cần một toán phó cho một cuộc thám sát, và tôi nghe nói anh là người có khả năng”.
        Tôi cũng không buồn hỏi lại ai nói cho anh ta biết về tôi, anh ta muốn làm tôi dễ chịu. Trước đó tôi đã làm toán phó cho một trung đội Hatchet dưới quyền chỉ huy của Frank Polk và có lần giao tranh ác liệt với VC khi chúng phản công chống lại trận phục kích của trung đội Hatchet. Một lần khác chúng tôi bị hỏa lực địch đàn áp khi tấn công một căn cứ của chúng. Nhưng sau đó trung sĩ Frank Polk bị thương còn tôi muốn tìm một chỗ “im lặng” hơn nên xin vào những toán thám kích.
        Trung sĩ Pridemore tiếp tục nói “Toán biệt kích gồm có: Wesson, Miller, và hai biệt kích người Miên, một người tên Song, người kia tên là... “Old Man”.  Tôi đã biết họ khi cùng phục vụ trong trung đội Hatchet, Wesson là một người lính trẻ, nhiều kinh nghiệm đời, mới mười chín mà cứ như đàn ông ba mươi tuổi. Miller còn nhỏ hơn Wesson một tuổi, dễ thương vẫn còn vị thành niên. Hai biệt kích Miên là những người chiến đấu giỏi và rất trung thành. Tôi trả lời Pridemore.
-          Đồng ý.
-          Tốt. Bây giờ phụ tôi chấm mấy tọa độ pháo binh (hỏa tập tiên liệu).
        Nói xong, Pridemore với tay lấy tấm bản đồ. Tọa độ pháo binh, là những mục tiêu chúng tôi chấm sẵn để bắn pháo binh. Nhờ vậy sự yểm trợ sẽ nhanh chóng mà không cần phải điều chỉnh tác xạ. Sau khi nghiên cứu bản đồ hành quân, chúng tôi chọn những chỗ như giao điểm của hai con đường mòn, nơi giòng suối uốn cong thành hình vòng tròn và giao điểm hai trục trên bản đồ.
-          Mình gặp nhau tại bãi đáp trực thăng lúc hai giờ chiều để bay thám sát.
        Pridemore nói rồi bước ra khỏi trung tâm hành quân. Đối với anh ta làm việc nhanh, gọn, chuyện tâm sự để khi sau khi hành quân về sẽ tính.
        Chuyến bay thám sát bao vùng chiến khu D là việc thường xuyên, nhưng lần này khu vực “làm việc” của chúng tôi quá rậm rạp, rừng cây bao phủ âm u, chỉ có một bãi đáp nhỏ cho trực thăng. Điều này nguy hiểm, bọn VC có thể đặt người quan sát canh chừng bãi đáp khi toán biệt kích xâm nhập, và cho người theo dõi từng bước.
        Khi trở về, đi ngang qua hội quán trông thấy Wesson và Miller đang uống bia.
-          Đừng vui quá độ, mình sẽ lên đường lúc rạng động
-          Chúng tôi biết điều đó. Bọ tôi tình nguyện vì biết trong toán biệt kích có anh.
        Tôi chỉ dặn dò sơ sơ Wesson, rồi đi tìm trung sĩ nhất Pridemore bàn thêm về chuyến xâm nhập sắp tới. Khu vực chúng tôi sắp thám sát, người Việt Nam gọi là “Khu Duc”. Sư đoàn 25 BB/HK đã cho các toán viễn thám vào nhiều lần nhưng chẳng tìm được dấu vết gì của địch. Do đó họ mới cần đến chúng tôi.
        Sau khi hai chúng tôi đã đi sâu vào chi tiết các hoạt động trong vùng địch. Tôi trở về sửa soạn ba lô, dụng cụ của mình sau đó kiểm soát ba lô, hành trang đem theo của hai biệt kích người Miên. Tôi cảm thấy thoải mái khi đã kiểm soát xong cho ba người, đi tìm “hai ông tướng” Wesson và Miller. Cả hai quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ đang ngồi ăn trong nhà ăn của Không Quân. Khi ăn xong bữa tối, chúng tôi về đến dẫy nhà của họ, kiểm soát hành trang, ba lô của hai người và khuyến cáo phải sẵn sàng để lên đường sớm buổi sáng mai.
        Trời hơi lạnh trong buổi sáng sớm nơi bãi đáp trực thăng. Pridemore cho chúng tôi thử lại hành trang bằng cách, đeo ba lô nhẩy lên, nhẩy xuống. Anh ta không muốn nghe tiếng động, và kiểm soát lại điạ bàn, bản đồ, vũ khí, đạn dược mang theo lần cuối. Sau đó cất mũ rộng vành (nón bo, quân biệt kích không đội nón sắt. Họ trang bị nhe, di chuyển nhanh và không được gây tiếng động) vào trong túi, lên trực thăng, bay lên hướng bắc.
        Viên phi công ra dấu hiệu báo cho trung sĩ nhất Pridemore biết đã gần đến bãi đáp. Từ trên không nhìn xuống, bãi đáp hiện ra rất rõ. Làn sương sớm che phủ đã bị ánh mặt trời làm tan đi. Người xạ thủ khẩu đại liên M-60 gắn trên trực thăng, hồi hộp mở to mắt ra nhìn xuống quan sát, ngón tay sẵn sàng bóp cò súng. Những quân nhân biệt kích không một người nào đùa giỡn.
        Chiếc trực thăng đáp nhanh xuống bãi cỏ tranh, không có cây cao, toán biệt kích nhẩy ra chạy nhanh vào bià rừng ẩn núp. Chiếc trực thăng bay lên thật nhanh cũng như khi đáp xuống, để lại toán biệt kích “cô đơn” trong vùng địch kiểm soát.
        Chúng tôi quan sát, nghe ngóng xung quanh khu rừng cho đến khi cảm thấy an toàn mới bắt đầu di chuyển. Cuối cùng, Pridemore báo về trung tâm hành quân cho biết toán biệt kích đã xuống bãi đáp an toàn, không chạm địch. Một người lính Miên biệt danh “Big Cowboy” cùng với Miller đi đầu. Tiếp theo là trưởng toán Pridemore, người lính Miên “Old Man” mang máy truyền tin, Wesson cùng với tôi đi sau làm hậu vệ. Toán biệt kích lặng lẽ di chuyển, vừa đi vừa quan sát, nghe ngóng, để ý những dấu hiệu của địch.
        Đi được khoảng bẩy mươi thước, “Big Cowboy”, “Old Man” hai người lính Miên ra hiệu nằm xuống. Chúng tôi dừng lại trong thế thủ, nghe ngóng động tĩnh. Hai người lính Miên làm cho mọi người có cảm giác, khu vực có mặt địch quân.
        Chỉ vài giây sau, hai người đàn ông xuất hiện nơi hướng bãi đáp trực thăng, di chuyển theo hình chữ Z qua lại đằng sau lộ trình toán biệt kích vừa đi qua. Họ chỉ còn cách chúng tôi khoảng năm mươi thước, di chuyển nhanh chóng, gần như đã có mục đích gì đó. Toán biệt kích năm im, theo dõi cho đến khi cả hai biến mất.
        Toán biệt kích từ từ đứng dậy, rồi tiếp tục di chuyển, người biệt kích Miên “Old Man” quay lại nói khẽ với tôi “VC”. Chúng tôi đi thêm khoảng hai tiếng đồng hồ, lúc đó “Old Man” ra dấu cho mọi người biết toán biệt kích vẫn còn bị theo dõi bởi một tên địch. Tôi thích thú, làm sao anh ta biết, nhưng có linh cảm địch quân lẩn vẩn quanh đây. Chúng tôi tạm dừng chân, bàn gấp tìm cách đối phó. Mọi người đồng ý, để tôi ở lại xem thử tên địch có đi theo toán biệt kích và sẽ “đụng” nhằm tôi không.
        Tôi nằm lại trong một bụi cây bên cạnh lộ trình di chuyển của toán biệt kích và chờ đợi. Mươi lăm phút sau vẫn không thấy bóng dáng tên VC, tôi bỏ chừng cuộc “phục kích” đi theo toán biệt kích. Cả nhóm mừng rỡ khi trông thấy tôi.
        Người Miên “Old Man” vẫn cho rằng, tên VC có nhiệm vụ canh chừng bãi đáp vẫn còn đó và tôi tin anh ta. Mặc dầu tôi chưa trông thấy tên VC, nhưng chắc anh ta đã cảnh giác, dừng lại ở đâu đó. Chúng tôi tạm nghỉ một chút và cũng để tên VC tìm đến kiếm ăn.
        Chúng tôi tiếp tục di chuyển, qua lại những khu vực không có những con đường mòn cắt ngang, mà rất thường thấy trong chiến khu D. Khu vực chúng tôi có nhiệm vụ thám sát không có dấu hiệu hoạt động nào của địch, mặc dầu vẫn biết rằng, không phải chỉ có toán biệt kích đang hiện diện trong khu vực.
        Đến giữa trưa, toán biệt kích di chuyển đến một giòng suối lớn, rộng khoảng năm mươi bộ (feet), có bờ đất cao hai bên. Ngay hai bên bờ có những bụi tre rậm rạp, có cành rũ xuống suối. Theo lệnh hành quân, chúng tôi phải lục soát một khu vực với góc độ 130, và ngọn suối nằm trên trục di chuyển của toán biệt kích, phải băng qua. Toán bố trí bên này bờ suối làm thành phần an ninh cho Miller và “Big Cowboy” băng qua bên kia bờ suối.
        Trưởng toán Pridemore cùng với “Old Man” đi tiếp theo, tôi canh chừng phiá sau, còn Wesson để ý hai bên bờ suối. Sau khi bốn người đã qua được bên kia bờ suối an toàn, Pridemore ra thủ hiệu cho tôi cùng với Wesson băng qua. Tôi quay lại nhìn Wesson, anh ta gật đầu ra dấu cho tôi qua trước.
        Tôi từ từ bước xuống giòng suối, nước lạnh như có đá, vừa bước vừa phải tránh những cành tre đã rơi xuống, ngầm dưới mặt nước. Quay lại, tôi trông thấy Wesson cũng vừa bước xuống suối và dường như đang luống cuống, chân bị mắc kẹt giữa đám thân tre. Tôi quay lại đưa tay cho anh ta nắm rồi kéo về hướng mình.
        Cả toán gom lại bên kia bờ suối, trưởng toán Pridemore ra lệnh cho Wesson đi bên phải lộ trình di chuyển, nơi giòng suối uốn quanh và biến mất khỏi tầm mắt. “Big Cowboy” vẫn đi đầu, Miller thủ bên trái. Trong khi đợi Pridemore báo cáo về trung tâm hành quân, tôi vẫn để ý phiá đuôi, bờ suối bên kia, nơi chúng tôi vừa từ đó băng qua suối. “Old Man” cũng đứng nhìn về phiá sau như tôi.
        Sau khi báo cáo, liên lạc xong, Pridemore ra dấu hiệu cho mọi người bố trí ăn trưa. Tôi lôi phần ăn khô đặc biệt cho các toán biệt kích ra, đổ nước vào. Trong khi chờ cho đồ ăn nở ra, tôi vẫn để ý quan sát bờ suối bên kia. Người lính biệt kích Miên “Old Man” ra dấu hiệu cho tôi ngồi lui vào sau một thân cây.
        Cả toán biệt kích bận rộn ăn bữa trưa, tôi chỉ ăn một miếng bánh kem. Mọi người vừa ăn vừa phải quan sát, canh gác, ngoại trừ “Old Man” vẫn dán mắt vào phiá bên kia giòng suối. Một người có kinh nghiệm chiến trường, thường có giác quan bén nhậy, linh tính rất tốt.
        Khi mọi người sắp ăn xong, chợt mắt “Old Man” mở to ra, anh ta nhẩy qua gốc cây tôi đang ngồi, chửi thề bằng tiếng Miên, bắn ra một loạt súng. Cùng lúc đạn từ phiá bên kia bờ suối bay qua trúng vào thân cây nghe lốp bốp. Tôi chụp khẩu M-16, lúc đó mới biết, khóa an toàn bị kẹt, phải dùng một băng đạn khác gõ vào chốt an toàn.
        Pridemore cùng với “Big Cowboy” bắt đầu bắn xuống bờ suối nơi mấy bụi tre. Anh ta gọi lớn “Old Man” đem máy truyền tin đến chỗ anh ta. “Old Man” nhanh nhẹn đem máy truyền tin lại, đưa ống nói cho Pridemore. cả hai nằm dài trên mặt đất. Miller cùng với “Big Cowboy” vẫn tiếp tục bắn vào mấy bụi tre, Wesson cũng nhả đạn qua phiá bên kia suối.
        Mấy viên đạn trúng vào thân cây tôi đang nấp. Tôi lăn mình qua gốc cây bên cạnh, quan sát xạ trường, “Old Man” cũng bắn trả đũa về hướng lộ trình chúng tôi vừa đi qua. Nhìn qua bên kia bờ suối, tôi trông thấy mấy bóng người đang chạy về hướng tây dọc theo giòng suối.
        Trưởng toán biệt kích Pridemore vỗ vào lưng tôi, nói.
-          Mình sẽ được trực thăng tới “bốc” bằng dây cấp cứu Maguire (vì khu vực rậm rạp, đang chạm địch, không thể di chuyển đến bãi trực thăng được). Anh đi trước.
-          Để cho Wesson và Miller đi trước. Tôi trả lời.
        Pridemore lắc đầu, ra lệnh.
-          Không. Anh và Wesson đi trước.
        Tôi gật đầu đồng ý. Khi nghe tiếng trực thăng trên đầu, Pride more la lên.
-          Ném qủa khói mầu.
        Viên phi công cấp cứu bay trên đầu nhận ra làn khói mầu vàng, bay lại thả dây Maguire xuống. Tôi la lớn gọi “Wesson”. Anh ta ngưng bắn, chạy lại ngồi vào sợi dây. Tôi chạy lại, ngồi vào sợi dây bên kia, trong khi bốn người còn lại bắn cầm chân không cho địch tiến lên.
        Bất ngờ, sợi dây vướng vào một cành cây, trong khi đó địch quân bắn lên chiếc trực thăng làm cho chuyên viên “câu người” Wal handwerk trên trực thăng phải chặt dây để cho chiếc trực thăng bay đi. Hai đứa tôi rơi xuống đất. Hú viá, tôi la lớn.
-          Chuyện gì vậy?
-          Mình phải di chuyển đến bãi đáp.
        Trưởng toán biệt kích Pridemore trả lời, chỉ tay về hướng tây nam, rồi ra lệnh cho tôi lên đi đầu, dẫn đường cho toán di chuyển đến một bãi đáp trực thăng khác. Tôi mở nắp điạ bàn, định hướng, rồi đi xuống suối nơi giòng suối uốn khúc quanh, rẽ qua một hướng khác.
        Khi bước xuống giòng suối, Wesson đứng ngay bên bờ, Pridemore, “Old Man” theo sau, và Miller cùng với “Big Cowboy” đi sau làm hậu vệ. Bỗng nhiên có một lực gì đẩy mạnh tôi về phiá bờ. Nước bắn lên tung toé, khi tôi ngã chìm xuống nước. Gượng dậy để đi tiếp qua bên kia, lúc đó tôi mới trông thấy lửa loé ra từ những đầu mũi súng. Theo bản năng tôi bóp cò khẩu M-16 bắn trả lại.
        Trên bờ, Wesson và Pridemore xả súng bắn vào bụi tre lớn phiá bên kia bờ, rồi tôi nghe tiếng thân người rơi xuống giòng suối. Tôi vẫn tiếp tục lội bì bõm qua phiá bên kia, rồi bám cây leo lên bờ dốc đứng, có bụi tre lớn che chở. Trước mặt là một khoảng tranh lớn, trực thăng có thể đáp. Phần còn lại của toán biệt kích lội qua sau và cũng đang leo lên.
        Chúng tôi quăng quả khói mầu vàng nơi khoảng đất trống làm dấu cho trực thăng, rồi chạy ra khi trực thăng đến bốc. Địch quân không dám tấn công vì có thêm hai chiếc trực thăng võ trang Cobra đang bay vòng vòng trên bãi đáp.
        Trở về đến căn cứ, phần thuyết trình của toán biệt kích rất ngắn, vì chúng tôi không tìm ra vị trí đặt hỏa tiễn pháo kích của địch. Tôi nhìn xuống chân, người y tá Miên đang lau chùi vết thương, lấy một miếng kim loại ra. Sau chuyến đi đó tôi được nghỉ gần tám tháng, miếng kim loại tôi vẫn giữ làm kỷ niệm.

Theo tài liệu: David C. Spencer, “Rapid Fire I”, Behind The Line magazine, 1996, page: 32-36
Dallas, TX.
vđh  

TRẬN ĐỨC LẬP
25/8/1968

        Trại LLĐB Đức Lập, A-239 là một tiền đồn biên phòng, cách thị xã Ban Mê Thuột khoảng sáu mươi cây số về hướng tây nam và cách biên giới Việt-Miên chưa đến năm cây số. Trại LLĐB này có vị trí chiến thuật rất quan trọng, nằm bên cạnh đường xâm nhập Trong căn cứ lúc đó có 3 quân nhân thuộc đơn vị (ban) 403 Hành Quân Đặc Biệt (SOD), 12 quân Mũ Xanh toán A LLĐB/HK, toán A LLĐB/VN, 350 Dân Sự Chiến Đấu người Thượng cùng với gia đình của họ.
        Vào lúc khuya đêm cuối cùng của tháng Tám, quân đội Bắc Việt tấn công trại LLĐB Đức Lập. Địch quân mở đầu trận đách bằng cách pháo kích súng cối, hỏa tiễn vào căn cứ. Ba quân nhân trong toán 403 SOD vội vàng ra vị trí phòng thủ.
        Trung Sĩ Nhất Hall, Trung Sĩ Alward chạy ra vị trí khẩu súng cối 81 ly bắn phản pháo. Họ tiếp tục bắn cho đến khi khẩu súng trở nên quá nóng, rồi tưới nước lạnh vào khẩu súng cối cho nguội bớt rồi bắn tiếp. Và cứ tiếp tục như vậy suốt đêm vì địch quân vẫn tấn công. Trong khi đó, Binh Nhất Childs đã bị thương vì pháo kích đang đưa vợ con binh sĩ người Thượng chạy vào những căn hầm trú ẩn, một mặt ra lệnh cho binh sĩ Thượng ra ngoài phòng tuyến chiến đấu.
        Qua sáng hôm sau, khi nắng đã lên, các phi tuần phản lực Hoa Kỳ được điều động lên đánh phá những vị trí của địch. Mặc dầu thời tiết xấu, nhiều mây, các phi công Hoa Kỳ vẫn cố gắng bay thấp thả bom để yểm trợ cho quân trú phòng. Trong một lần bay xuống oanh kích, một phản lực F-100 Super Sabre trúng đạn phòng không rớt. Viên phi công nhẩy dù ra nhưng cánh dù bay về hướng địch quân.
        Trung Sĩ Nhất Hall, Trung Sĩ Alward, Binh Nhất Childs cùng với mấy Mũ Xanh Hoa Kỳ vội vàng đi tiếp cứu người phi công lâm nạn, và họ đã nhanh chân hơn quân Bắc Việt đem được viên phi công vào bên trong căn cứ.
        Trong vòng ba ngày hai đêm, trại LLĐB Đức Lập bị pháo kích, tấn công nhiều đợt. Căn cứ được thiết lập trên hai ngọn đồi. Sau nhiều đợt tấn công, quân Bắc Việt chiếm được ngọn đồi nơi hướng bắc và khu vực yên ngựa giữa hai ngọn đồi. Đã có lúc địch quân đẩy mạnh mũi tấn công, xung phong lên ngọn đồi thứ hai, chỉ còn cách hầm trung tâm hành quân chừng 50 thước nhưng bị đẩy lui.
        Trong một đợt tấn công khác, mấy binh sĩ Thượng lui về phiá sau phòng tuyến, nhưng Childs bắt họ phải quay trở lại. Sau đó người lính Mũ Xanh Hoa Kỳ cùng với một y tá LLĐB Việt Nam chỉ huy chừng mười binh sĩ khác, phản công xuống khu vực yên ngựa, để lên ngọn đồi hướng bắc. Hai quân nhân LLĐB Mỹ Việt dùng lựu đạn đánh chiếm từng công sự phòng thủ đã bị quân chiếm giữ. Các binh sĩ người Thượng quá sợ hãi không đi theo.
        Khi xuống đến khu thấp nhất của yên ngựa, người y tá LLĐB/VN trúng đạn gục xuống. Childs mang đeo nhiều lựu đạn, thêm súng đạn lỉnh kỉnh không vác nổi người lính LLĐB/VN, anh ta quay trở lên trên đồi, bỏ túi lựu đạn, khẩu M-16 lại chỉ cầm khẩu Colt-45 xuống cứu bạn nhưng bị địch bắn dội trở lại. Sau đó có thêm hai quân nhân LLĐB/VN đi theo Childs xuống cứu anh y tá, cõng trở lên trên đồi.
        Trận đánh kéo dài qua ngày thứ ba, một đơn vị Xung Kích (Mike Force) Dân Sự Chiến Đấu người Thượng từ Nha Trang đến tiếp viện, phá được vòng vây vào đến căn cứ. Lực lượng trú phòng cùng với quân tăng viện phản công lấy lại đồi bắc. Trận tấn công trại LLĐB Đức Lập bị đẩy lui.
        Sau ba ngày giao tranh, 9 quân nhân LLĐB Việt Mỹ bị thương, 150 binh sĩ, thường dân Thượng chết hoặc tử trận. Quân Bắc Việt để lại trên chiến trường hàng trăm xác chết.
        Ngoài huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc, Trung Sĩ Nhất Hall, Binh Nhất Childs được gắn thêm Chiến Thương Bội Tinh. Ba quân nhân Mũ Xanh khác được huy chương Đồng. Trước khi trận đánh xẩy ra, Binh Nhất Childs chỉ còn 5 ngày phục vụ tại Việt Nam.



KẾT QUẢ TRẬN TẤN CÔNG TRẠI LLĐB ĐỨC LẬP
 
Đơn vị tham chiến: Quân đội Hoa Kỳ
Tỉnh Quảng Đức, Quân Đoàn II, Nam Việt Nam
Nơi xẩy ra trận đánh: Đức Lập

        Trận đánh kéo dài ba ngày. Quân đội Bắc Việt cố gắng mở một đợt tấn công khác trước khi trời xập tối. Địch quân lợi dụng thời gian không có phi cơ yểm trợ cho trại Lực Lượng Đặc Biệt Đức Lập. Khi trời tối sẽ có phi cơ võ trang Spectre lên bao vùng yểm trợ, ban ngày, khi còn ánh nắng mặt trời có những phi tuần phản lực thả bom.
        Quân Bắc Việt tấn công từ hướng bắc xuống và đã chiếm được bốn công sự chiến đấu trên ngọn đồi chính. Địch đưa thêm một đại đội xâm nhập vào hướng tây nam, bị quân trú phòng phát giác khi đại đội này đã tiến vào sát lớp hàng rào phòng thủ, trong tầm ném lựu đạn.
        Các phi vụ oanh kích đã được gọi đến thả bom trên những vị trí đã bị địch chiếm. Một quả bom Napalm rơi lầm, gần vị trí một đại đội Dân Sự Chiến Đấu, làm cho binh sĩ đại đội này phải chạy ngược lên trên đồi. Các cố vấn LLĐB Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi đã chiến đấu tận lực để làm chủ tình hình vào lúc 9:30 sáng. Trận đánh gây tổn thất cho cả đôi bên. Tình trạng phiá đồng minh không được sáng sủa.
        Lúc mười giờ, binh sĩ LLĐB/HK Childs cùng với Trung Sĩ y tá LLĐB/VN Lê Văn Lai, đã tự động chiến đấu, thanh toán những ổ kháng cự của địch. Phi cơ vận tải Caribou đã thả những kiện hàng tiếp tế thêm đạn dược cho trại LLĐB Đức Lập. Hai đại đội Xung Kích thuộc tiểu đoàn 5 Xung Kích (Mike Force) ở Nha Trang đã được không vận xuống nơi hướng tây căn cứ, đến tăng cường cho trận điạ. Hai đại đội này di chuyển xuyên qua cánh đồng trống, xác binh sĩ Bắc Việt và qua phòng tuyến đã bị địch phá hủy để vào tiếp tay với binh sĩ trú phòng. Ít phút sau, tiểu đoàn 2 Xung Kích cũng vào đến bên trong trại LLĐB.
        Tất cả các lực lượng Dân Sự Chiến Đấu phác họa kế hoạch phản công. Bắt đầu lúc 14:30 chiều, một đại đội Dân Sự Chiến Đấu người Nùng tấn công các công sự chiến đấu đã bị địch chiếm giữ. Các đại đội DSCĐ còn lại, người Thượng được phân công đắnh lên ngọn đồi do quân đội Bắc Việt chiếm đóng. Sau hai giờ đồng hồ phản công quyết liệt, với lòng can đảm, các binh sĩ Thượng đã lấy lại phần lớn ngọn đồi. Một trong những cấp chỉ huy người Thượng là Y Gaul Nie đã anh dũng chiến đấu cho đến khi tử trận vì lựu đạn. Lực lượng Dân Sự Chiến Đấu càn quét xung quanh và hoàn toàn làm chủ ngọn đồi. Đến tối tất cả binh sĩ quân đội Bắc Việt đều bị giết hoặc đã phải rút ra ngoài căn cứ sau năm tiếng đồng hồ đánh cận chiến.
        Trận Đức Lập là một chiến thắng của Lực Lượng Đặc Biệt. Hoàn toàn do các đơn vị Xung Kích Dân Sự Chiến Đấu đảm trách, ngoài ra không có thêm một đơn vị nào của đồng minh. Tổng kết trận đánh: 6 LLĐB/HK, 1 LLĐB/VN, 37 DSCĐ, 20 thường dân người Thượng chết hoặc tử trận. Mất tích 9 DSCĐ, bị thương 13 LLĐB/HK, 7 LLĐB/VN, 80 DSCĐ. Quân Bắt Việt để lại 303 xác chết trên chiến trường.

Theo tài liệu: The Green Berets at War. Trang 205.



ĐẠI ĐỘI XUNG KÍCH TIẾP ỨNG MIKE FORCE

        Câu chuyện bắt đầu khi tôi vừa được xuất viện, nằm mãi trên giường bệnh cũng chán. Leo lên xe Jeep, người tài xế của đơn vị lái xe theo con đường đất đỏ đưa tôi trở về căn trại của liên đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, nằm cuối dẫy nhà của bệnh viện.
        Khi tôi cùng người tài xế bước vào doanh trại, bên trong nhiều quân nhân khác đang đem đồ đạc đi ra, vừa nói chuyện ồn ào. Chúng tôi đến văn phòng của toán, đang đứng ngay trước cửa là trung úy Wright, đại đội trường của tôi, người đứng bên cạnh là một vị mang cấp bậc thiếu ta. Trung úy Wright nói tôi trở ra xe Jeep, thay bộ quân phục “Cọp Vằn” (đồ bệt của LLĐB, hơi khác quân phục của TQLC/VN) vào, trên xe đã có đủ “đồ nghề” đê đi hành quân.
        Trung úy Wright chào viên thiếu tá rồi ra xe. Ông ta bỏ ba lô, dây đạn ra đằng sau xe, rồi đưa cho tôi khẩu CAR-15 (Khẩu CAR 15, giống như khẩu súng quân đội Hoa Kỳ đang xử dụng. Trên chiến trường VN, chỉ có LLĐB/HK, biệt kích Lôi Hổ mới được trang bị). Trung úy Wright ra lệnh cho tôi liên lạc với người hạ sĩ quan của tôi khi đến Ban Mê Thuột và đại đội Xung Kích (Mike Force) chúng tôi sẽ đi tiếp viện cho một toán A LLĐB/HK trong căn cứ Đức Lập, trại LLĐB  này đang bị quân đội Bắc Việt tấn công.
        Người tài xế nhanh nhẹn vòng xe trở lại, chạy thẳng ra phi trường, cũng ở bên cạnh bệnh viện. Bên trong là mấy chiếc vận tải cơ C-130, chiếc đầu đã chuẩn bị cất cánh. Chúng tôi chui vào một chiếc C-130 đậu cuối hàng máy bay. Bên trong hơi tối, chỉ có hàng đèn mờ trong thân máy bay, đã chứa đầy quân đại đội Xung Kích cùng với súng ống, dụng cụ. Tôi chưa biết tìm đâu ra người hạ sĩ quan làm việc với tôi.
        Nơi cuối máy bay, tôi thay bộ quần áo biệt kích vào, đeo thêm dây đạn, cầm khảu CAR-15 cho giống các quân nhân Dân Sự Chiến Đấu người Thượng. Tôi ngồi trên những thùng đạn mà đại đội Xung Kích sẽ cần đến trong trận đánh sắp tới.
        Chiếc máy bay vận tải C-130 cất cánh, lấy hướng đi Ban Mê Thuột, và trong vòng 45 phút sau, phi cơ hạ cánh. Các binh sĩ trong đại đội lần lượt kéo nhau ra khỏi máy bay, di chuyển đến phiá bên trái phi đạo chấn chỉnh lại đội ngũ.
        Lúc đó tôi mới đảo mắt tìm các bạn cùng đơn vị. Chúng tôi thuộc đại đội 5, một phần trong B-55 Lực Lượng Xung Kích (Mobile Strike Force, Mike Force). Nhiệm vụ của chúng tôi cũng tương tự như lính cứu hỏa. Những tiền đồn biên phòng do các toán A LLĐB bị quân đội Bắc Việt tấn công hoặc bao vây chúng tôi đến tiếp cứu.
        Sau khi trại LLĐB Lang Vei bị chiến xa cùng bộ binh Bắc Việt tấn công, tràn ngập vào đầu năm 1968, Đại Tướng Westmoreland, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam ra lệnh “Không để mất một trại LLĐB nào khác như trận tấn công Lang Vei trước đây”. Do đó mới thành lập thêm một đơn vị xung kích, tiếp ứng cho mỗi vùng chiến thuật để bảo vệ các trại biên phòng.
        Tôi đến chỗ vừa được thiết lập tạm thời như một trung tâm hành quân. tại đây đã có mặt trung sĩ nhất Nunez, anh ta đưa tôi đến gặp mấy người trung sĩ quan khác, Estrada, Gonzales và Maketa. Họ đang bàn tán về nhửng gì đã được nghe về trận Đức lập.
        Theo tin tức được biết, địch quân (có lẽ đơn vị đặc công) đã bò gần vào phòng tuyến lúc đêm tối và bắt đầu tấn công lúc sáng sớm. Quân đội Bắc Việt đã chiếm được ngọn đồi nơi hướng bắc, giết nhiều binh sĩ cũng như thường dân người Thượng. Những người sống sót chạy thoát về ngọn đồi nơi hướng nam, tuyến phòng thủ chính của trại. Quân đội Bắc Việt đang bao vây và sẽ tấn công dứt điểm phần còn lại của trại LLĐB. Quân phòng thủ đang chiến đấu trong tuyệt vọng, cần được tiếp viện ngay tức khắc.
        Không may, tối hôm đó vì thời tiết, trực thăng không thể đưa đại đội xung kích vào trận điạ, chúng tôi phải chờ đến sáng hôm sau. Tôi cảm thấy có điều gì ràng buộc với những quân nhân đang tử thủ trong căn cứ, họ sẽ phải chiến đấu bằng sức mình qua một đêm nữa. Tôi hy vọng, chúng tôi sẽ đến tiếp cứu họ kịp thời.
        Chúng tôi được đại tá Schengel cho biết sơ tình hình nguy ngập của trại LLĐB Đức Lập và ra lệnh cho chúng tôi sẵn sàng để lên trực thăng sáng sớm hôm sau. Chúng tôi trở về nơi đóng quân tạm thời, dựng lều ngủ qua đêm, sắp đặt việc canh phòng và sửa soạn. Trong ban chỉ huy, chúng tôi bàn sơ qua, sẽ phải làm gì khi đến Đức Lập, rồi đi ngủ sớm.
        Tôi không ngủ được vì nôn nóng, nên ra ngoài đi tuần, nói chuyện với mấy Dân Sự Chiến Đấu người Thượng để hiểu rõ họ hơn. Đó cũng là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với họ. Tôi thuyên chuyển đến đơn vị mới được ba tuần, rồi được gửi đi thụ huấn khóa viễn thám (của LLĐB/HK, Recondo school). Tiếp theo là năm ngày nằm bệnh viện vì ăn trúng độc. Đến hôm nay mới xuất viện và... đang trên đường ra chiến trường. Tôi hồi hộp vì lần đầu tiên ra đơn vị, biết mặt binh sĩ của mình.
        Thêm một điều nữa, tôi là một thiếu úy mới ra trường. Vị đại đội trưởng là trung úy Wright bị thương nơi bàn tay, nên đơn vị phải cho người vào bệnh viện lôi tôi về gấp cho chuyến hành quân này... và tôi đang nắm trong tay một đại đội xung kích dân sự chiến đấu.
        Theo kế hoạch, đại đội của chúng tôi sẽ được trực thăng đưa vào Đức Lập trong đợt đổ quân thứ hai. Một đại đội khác sẽ phải vào trận điạ trước. Khoảng cách từ Ban Mê Thuột đến Đức Lập không xa, đợt đổ quân đầu hoàn tất trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Các trực thăng đã quay trở về để đưa đại đội tôi vào vùng hành quân.
        Chúng tôi lên trực thăng rồi đoàn trực thăng cất cánh bay về hướng tây. Trại LLĐB Đức Lập nằm ngay trên giao điểm các nhánh rẽ của hệ thống đường mòn HCM. Trại ngăn ngừa địch chuyển quân vũ khí từ bắc vào miền nam Việt Nam, nên địch quân phải “tống cổ” quân đồng minh ra khỏi khu vực để họ dễ dàng thực hiện kế hoạch của họ.
        Quân số trong trại gồm toán A LLĐB/VN, người Thượng thuộc sắc dân Rhade, Jarai, thêm người Nùng, Chàm và một toán A LLĐB/HK. Trên lý thuyết, chúng tôi giữ vai trò cố vấn cho toán A LLĐB/VN, nhưng thực tế chúng tôi chỉ huy vì người Thượng muốn giết tất cả người Việt (bắc lẫn nam).
        Đoàn trực thăng bay trên cao độ 5000 bộ (feet). Gió thổi vào trực thăng đem theo hơi lạnh. Từ xa chúng tôi trông thấy mấy chiếc phản lực đang đánh bom, yểm trợ cho căn cứ. Đoàn trực thăng giảm cao độ, chúng tôi trông thấy khói bốc lên và những tiếng nổ lớn của bom.
        Khi trực thăng còn cách mặt đất khoảng hai, ba bộ, chúng tôi nhẩy ra khỏi, và đoàn trực thăng cất cánh nhanh chóng. Đại đội của tôi gọm lại và bắt đầu di chuyển về hướng trại LLĐB với đội hình một hàng dọc. Đi được khoảng một cây số, toán quân dẫn đầu đại đội bắt đầu chạm địch. Trông thấy đoàn quân tiếp viện tới, địch quân bắn lấy lệ rồi bỏ chạy, tuy nhiên vẫn làm chậm bước đơn vị.
        Từ trên trực thăng chỉ huy, cấp chỉ huy nhận thấy điều đó, ra lệnh cho chúng tôi tiến nhanh hơn vì địch quân sắp sửa tung một đợt tấn công mới lên ngọn đồi chính nơi hướng nam. Tiếp theo có mấy khu trục cơ A-1 Skyraiders từ thời đệ nhị thế chiến nhào xuống thả bom, chỉ cách toán quân đi đầu của đại đội không đến 1500 thước.
        Khoảng mười lăm phút sau, toán tiền phương báo cáo cho biết đã đến sát hàng rào phòng tuyến tây nam của căn cứ Đức Lập và chuẩn bị tiến vào bắt tay với đơn vị trú phòng. Vài phút sau, cả đại đội leo lên đồi, xung quanh lớp hàng rào phòng thủ, vương vãi những các chết, nhiều xác đã trương sình lên dưới ánh nắng mặt rời. Mùi hôi thối xông lên nặng nề, kinh khủng, cũng may tôi chỉ uống một ca cà phê buổi sáng.
        Vào đến căn hầm chính, trung tâm hành quân của căn cứ, tôi được cho biết, quân Bắc Việt đã rút lui về ngọn đồi bắc, sau khi thấy quân tăng viện đến. Có thể địch vẫn còn ít quân cố thủ trong những hầm hố giao thông hào nơi hướng đông và tây căn cứ mà chúng đã chiếm được. Phe ta phải bứng gốc, tái chiếm lại những vị trí này. Sau đó phản công lấy lại ngọn đồi bắc trước khi trời tối. Nhiệm vụ này cũng gay go, nhưng vẫn phải xong để giữ vững trại LLĐB Đức Lập.
        Tôi ra lệnh cho trung đội do trung sĩ Nunez chỉ huy càn quét địch ra khỏi khu vực phiá tây, một trung đội đánh vòng theo hướng đông của căn cứ, một trung đội khác thiết lập vị trí súng cối để yểm trợ cho hai trung đội phản công. Hai trung đội sẽ bắt tay nhau tại hướng mười hai giờ, sau đó cùng tấn công lên ngọn đồi bắc.
        Khi tôi bắt đầu di chuyển ra khỏi trung tâm hành quân khoảng hai mươi thước, một đại úy tự xưng là Joseph Trimble, cấp chỉ huy mới. Ông ta ra lệnh cho tôi, đích thân chỉ huy trung đội đánh chiếm lại khu vực hướng tây. Một thiếu úy mới ra trường lúc đó chỉ biết tuân lệnh, rồi đi theo trung đội của trung sĩ Ninez.
        Khi chúng tôi tiến lại gần, địch quân từ trong hầm hố bắn ra. Tôi lấy mấy binh sĩ người Thượng, cùng với tôi thanh toán những tên địch dưới giao thông hào trước, sau đó ra lệnh cho họ bắn yểm trợ để tôi tiến lại gần căn hầm ném lựu đạn vào. Khói và đất tung lên theo tiếng lựu đạn nổ, tôi nhẩy vào bên trong căn hầm vào bắn thêm loạt đạn CAR-15 giết tất cả những tên còn lại.
        Sau khi thanh toán xong căn hầm thứ nhất, tôi vững tin mình có thể chỉ huy được. Chúng tôi đánh tiếp căn hầm thứ hai. Cũng như lần trước, địch từ trong hầm bắn ra làm chúng tôi phải nhẩy xuống giao thông hòa tránh đạn. Sau đó mấy binh sĩ Thượng bắn phủ đầu để tôi tiến sát căn hầm tung lựu đạn vào thanh toán.
        Lần lần chúng tôi tiến dần ra đến cổng chính. Nhìn về bên phải, hướng đông thấy phe ta. Chúng tôi sắp bắt tay nhau để cùng tấn công lên ngọn đồi bắc. Tôi cùng với mấy binh sĩ nhẩy xuống một hố bom, bắn lên đồi bắc, nhưng hình như khẩu CAR-15 của tôi bị kẹt đạn mà không thể điều khiển được. Một người lính Thượng chỉ tay vào bụng tôi. Nhìn xuống, cái áo đã bay mất một miếng vải, túi vải đựng mấy băng đạn bay mất nắp, trông thấy mấy băng đạn lòi ra. Tôi cảm thấy có dung dịch nhớp nhúa (máu) phần bên phải thân thể, rồi hoa mắt gục xuống.
        Đúng lúc đó trung sĩ Nunez nhẩy xuống hố bom, ra lệnh cho một binh sĩ Thượng dìu tôi quay trở về trạm cứu thương. Tôi không còn biết gì nữa, ngất đi. Trong khi đó, trung sĩ Nunez cùng với các binh sĩ khác phản công lên đồi bắc.
        Tôi tỉnh dậy vào sáng hôm sau mới biết, trên cánh tay lòng thòng sợi dây chuyền nước biển, dưới bụng tôi quấn một lớp băng. Xung quanh hầm quân y trở nên bận rộn, mọi người chạy tới chạy lui, để chuẩn bị tản thương ra bãi đáp trực thăng. Tôi được thông báo, quân ta đã chiếm lại ngọn đồi bắc, và các binh sĩ đang dọn dẹp các tử thi của địch bỏ lại, cùng thâu nhặt vũ khí gom lại một đống. Có nhiều tiếng động cơ trực thăng lên xuống căn cứ.
        Chúng tôi đã cứu trại Lực Lượng Đặc Biệt Đức Lập và tôi cảm thấy sung sướng, thêm một chút hãnh diện. Đây là trận đánh đầu tiên trong đời binh nghiệp và tôi đã chứng tỏ khả năng lãnh đạo chỉ huy đơn vị. Tôi hơi buồn khi được biết đại đội xung kích, tiếp ứng Mike Force có một trung sĩ hy sinh trong trận phản công đánh lên đồi bắc. Tôi là “người mới” trong đơn vị chưa biết anh ta là ai nhưng vẫn buồn.
        Tôi bước ra ngoài căn hầm quân y, ngồi dựa vào bao cát ngắm nhìn trời đất, khung cảnh đổ vỡ, hoang tàn của chiến tranh vẫn còn đó. Một trực thăng loại lớn Chinook CH-47 nhẹ nhàng đáp xuống yên ngựa giữa hai ngọn đồi để di tản thương binh. Một binh sĩ Thượng đến bên cạnh, dìu tôi đi xuống chỗ yên ngựa rồi chui vào trong bụng chiếc trực thăng.

John Wilson
Đại đội 5, B-55 Lực Lượng Xung Kích (Mobile Strike Force), Nha Trang, Việt Nam

Theo tài liệu:

Dallas, TX.
vđh


CHIẾN ĐOÀN ĐẶC NHIỆM PRONG
TRẠI LLĐB PLEI DJERENG (A-251)

        Đây là bản báo cáo kết qủa ngày 11 tháng Giêng Năm 1967 của chiến đoàn đặc nhiệm Prong. Kể từ khi Hoa Kỳ đưa thêm nhiều đơn vị tác chiến qua Việt Nam, nhiều cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu của LLĐB đã được tổ chức. Những cuộc hành quân phối hợp này bắt đầu từ năm 1966, lên tới cao điểm trong hai năm 1968, 1969. Những cuộc hành quân loại này đều có lợi cho các đơn vị tham dự.
(1) Bối cảnh: Sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ, thảo kế hoạch hành quân càn quét khu vực nơi hướng bắc trại Lực Lượng Đặc Biệt Plei Djereng (A-251), trải rộng về hướng đông lằn ranh 90 và về hướng tây đến sông Nam Sathay. Mục tiêu là những đơn vị thuộc sư đoàn 325 Bắc Việt, nghi ngờ đang hiện diện trong khu vực hành quân. Sĩ quan chỉ huy đại đội B (bộ chỉ huy B LLĐB) đề nghị lục soát luôn khu vực phiá tây (bên kia) sông Nam Thay. Vì lý do, thung lũng Plei Trap cũng nằm bên hướng tây giòng sông, và là một đường xâm nhập lớn, đưa quân cùng chiến cụ vào miền nam Việt Nam. Liên đoàn 5 LLĐB/HK muốn xử dụng một đơn vị DSCĐ tảo thanh khu vực này. Sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ, muốn xử dụng các tiểu đoàn bộ binh cơ hữu, phối hợp với DSCĐ.

Tuy nhiên, sự kiện đơn vị DSCĐ hành quân độc lập tốt hơn, thay vì phải di chuyển song song với các đơn vị bộ binh trên trục tiến quân. Sư đoàn 4 BB/HK chấp thuận và ngày 8 tháng Mười Một đưa ra một lệnh hành quân mới thêm phần thay đổi. Bộ chỉ huy B LLĐB chia khu vực trách nhiệm cho ba đại đội DSCĐ. Kế hoạch hành quân này được sửa đổi dựa trên sự khác biệt giữa DSCĐ và các đơn vị chính quy, sẽ đem lại kết qủa tốt hơn.

(2) Hành quân: Bắt đầu từ ngày 8 tháng Mười Một, đại đội 2, tiểu đoàn 2/8/4 bộ binh được đưa đến bảo vệ bãi đáp Lane (Lore), tại tọa độ YA600530. Lúc 8:30 phút sáng, cuộc không vận chiến đoàn đặc nhiệm Prong bắt đầu, đại đội 3 xung kích Mike Force cùng với bộ chỉ huy B LLĐB được đưa vào vùng hành quân chuyến đầu tiên. Lực lượng DSCĐ từ hai trại LLĐB Plei Djereng và Đức Cơ vào đến vùng hành quân lúc 11:15 phút.

Lúc 1:30 phút chiều, đơn vị xung kích Mike Force chạm súng với một đơn vị phòng không của địch gần tọa độ YA602542. Mike Force giết một địch quân, tịch thâu hai đại liên phòng không 12.7 ly, 2 tiểu liên AK-47 và 35 ba lô. Ít phút sau, đơn vị Mike Force  lại đụng với một tiểu đội lính Bắc Việt, bắn hạ hai địch quân, về phiá bạn có một quân nhân Mũ Xanh LLĐB/HK bị thương. Đơn vị DSCĐ trại LLĐB Plei Djereng giết chết một toán ba người lính Bắc Việt gần tọa độ YA605526. Đến lúc này, bộ chỉ huy chiến đoàn đặc nhiệm Prong ra lệnh cho các đơn vị tách ra, đại đội DSCĐ Plei Djereng tiến về hướng nam, đại đội DSCĐ Đức Cơ di chuyển về hướng tây. Đến 8:00 giờ tối tất cả các đơn vị dừng quân, đóng quân đêm.

(3) DSCĐ Plei Djereng: Trong ngày 9, lúc 8:05 phút, toán phục kích Plei Djereng bắt gặp một trung đội trinh sát của địch tại tọa độ YA606512. Trung đội địch di chuyển lên hướng bắc, ngược với trục tiến quân về hướng nam của đại đội DSCĐ Plei Djereng. Toán phục kích DSCĐ nổ súng trong lúc đơn vị địch đang băng qua một con suối, và tiếp theo DSCĐ đụng phải một đại đội lính Bắc Việt trong hầm hố chiến đấu tại tọa độ YA605509. DSCĐ Plei Djereng bố trí nơi bờ phiá bắc giòng suối, rồi xin phi cơ FAC bao vùng, điều chỉnh pháo binh tác xạ lên vị trí phòng thủ của địch. Đúng 10:10 phút, loạt pháo binh phủ đầu vừa dứt, các binh sĩ DSCĐ Plei Djereng xung phong qua giòng suối tấn công, nhưng bị hỏa lực của địch bắn ra xối xả, dội trở lại. DSCĐ lại xin pháo binh tác xạ trở lại và làm bãi đáp trực thăng để di tản thương binh, cùng những binh sĩ tử thương. Đại đội lính Bắc Việt chỉa mũi tấn công vào khoảng giữa bãi đáp trực thăng, và sau lưng phòng tuyến, làm đại đội DSCĐ Plei Djereng phải yêu cầu tăng viện. Kết qủa trong ngày, 4 lính Bắc Việt tử trận, 4 DSCĐ tử trận, 2 LLĐB/HK và 5 DSCĐ bị thương.

(4) DSCĐ Đức Cơ: Đại đội DSCĐ Đức Cơ chuyển quân về hướng tây đến một con đuờng mòn do toán biệt kích tìm ra, nhưng không chạm địch. Một trung đội lục soát khu vực hướng tây, tìm thấy xác một khu trục cơ A1-E Skyraider, có chữ ZB sơn ở đuôi phi cơ. Đại đội DSCĐ tổ chức phục kích giết bốn lính Bắc Việt, sau đó di chuyển đến an ninh bãi đáp trực thăng tại tọa độ YA612553, để di chuyển số súng tịch thâu được của địch.

(5) Lúc 1:13 phút trưa, đại đội DSCĐ Đức Cơ được lệnh di chuyển về hướng nam, tiếp viện đại đội DSCĐ Plei Djereng đang bị địch cầm chân. Trên lộ trình di chuyển, DSCĐ Đức Cơ được biết, địch đặt súng đại liên và bắn tiả tại tọa độ YA606571. Đến 3:30 chiều, hai đại đội DSCĐ bắt tay và cùng rút lui. Đại đội DSCĐ Đức Cơ nằm cản hậu cho DSCĐ Plei Djereng rút trước và được pháo binh yểm trợ, không cho địch quân truy kích. Đến 6:30 phút xế chiều, một trung đội Plei Djereng bảo vệ bãi đáp trực thăng để di tản thương binh, phần còn lại của hai đại đội DSCĐ lập tuyến phòng thủ đêm.

(6) Qua ngày 10 tháng Mười Một, đại đội C, tiểu đoàn 1/14 Bộ Binh được trực thăng vận vào bãi đáp Lane tiếp viện cho lực lượng DSCĐ. Cánh quân này sẽ tấn công vị trí phòng thủ của đại đội lính Bắc Việt, DCSĐ Plei Djereng đụng phải ngày hôm trước. Theo kế hoạch tấn công, đại đội C sẽ tấn công từ hướng đông, trong khi đó DSCĐ sẽ di chuyển về hướng nam làm nút chặn. Đơn vị DSCĐ vừa di chuyển chưa được xa, đụng phải tổ trinh sát của địch, giết một lính Bắc Việt. Tiếp tục di chuyển, đơn vị DSCĐ đụng phải đơn vị cấp tiểu đoàn của địch, bố trí phục kích theo hình chữ “L” tại tọa độ YA605515. Trận đánh trở nên quyết liệt, DSCĐ lập tuyến phòng thủ tại tọa độ YA608515 và xin phi pháo yểm trợ. Đến 6:00 giờ chiều, tiếng súng địch thưa dần, chỉ còn tiếng đạn bắn tỉa. Kết qủa 12 binh lính Bắc Việt chết, 1 LLĐB/HK, 4 DSCĐ tử trận, 1 LLĐB/HK, 17 DSCĐ bị thương và 5 DSCĐ mất tích.

Trong khi đó, đại đội xung kích Mike Force tổ chức phục kích cách vị trí DSCĐ/BB khỏang năm dặm, 6 binh sĩ Bắc Việt đang di chuyển bị giết bốn, hai bị thương và bị bắt sống. Lúc 4:30, một toán tiền phương thuộc đại đội xung kích Mike Force giết chết một lính bắn tỉa Bắc Việt nơi một hồ cạn nước. Mike Force lập tuyến phòng thủ đêm nơi hồ cạn, đặt toán phục kích trên đường mòn chạy song song.

(7) Ngày 11 tháng Mười Một năm 1966, lúc 0:15 phút sáng, đại đội A được đưa vào tăng cường cho đại đội C, tiểu đoàn 1/14 Bộ Binh. Họ bắt tay với lực lượng DSCĐ tại tọa độ YA605515. Lúc 6:00 giờ sáng, đơn vị Mike Force đóng quân đêm bên bờ hướng tây hồ cạn bị một đơn vị địch cấp đại đội bắn dữ dội. Pháo binh và không quân được gọi lên yểm trợ cho đại đội xung kích Mike Force, nhưng địch quân tiếp tục bắn súng đối, đại liên lên phòng tuyến của đại đội Mike Force. Đơn vị Mike Force phải rút lui, lực lượng tấn công của địch lên tới cấp tiểu đoàn. Đến 9:00 sáng, một trực thăng đem đồ tiếp tế đến cho đơn vị hành quân, bị địch bắn lên gây tử thương cho hai phi hành đoàn trên trực thăng UH1-D, chiếc trực thăng phải bay ra khòi vùng hành quân. Trận đánh vẫn tiếp tục, đến 12:30 một chuyến trực thăng tiếp tế thành công. Đến 4:30 chiều, đại đội B, tiểu đoàn 1/12 Bộ Binh được đưa vào tiếp viện làm địch quân phải rút lui. Kết qủa trận đánh, 58 lính Bắc Việt, 1 LLĐB/HK, 1 BB/HK, và 13 DSCĐ tử trận, 30 LLĐB/HK, 40 DSCĐ bị thương. Lực lượng bạn tổ chức phòng thủ đêm tại tọa độ YA601515, đại đội A, tiểu đoàn 1/14 đặt toán phục kích tại tọa độ YA606511.   

(8) Từ ngày 12 đến 15 tháng Mười Một, lực lượng DSCĐ di chuyển đến bãi đáp Lane. Trên đường di chuyển, họ bắn bị thương một và bắt sống một địch quân. Ngày 13, đại đội DSCĐ Plei Djereng được trực thăng vận trở về trại, được thay thế bằng một đại đội DSCĐ đến từ trại LLĐB Pleime. DSCĐ Pleime cùng với trung đội trinh sát tiểu đoàn 1/14 BB, lục soát khu vực xung quanh bãi đáp Lane, hôm 15 tháng Mười Một. Ngày 13, đại đội xung kích Mike Force cùng với đại đội B, tiểu đoàn 1/12 BB di chuyển đến bảo vệ căn cứ hỏa lực tiểu đoàn 1/12 BB tại tọa độ YA602550. Ngày 14, đại đội 1 Mike Force vào thay cho đại đội 3 Mike Force.

(9) Bắt đầu từ ngày 16 tháng Mười Một, một đại đội DSCĐ từ Buon Blech (A-238) được trực thăng vận từ trại LLĐB Plei Djereng, tăng cường cho tiểu đoàn 2/8 trong một cuộc hành quân “lùng và diệt”. Ngày 17 tháng Mười Một, đại đội DSCĐ Pleime chạm súng với một đại đội lính Bắc Việt. Lúc 12:00 giờ trưa, DSCĐ Pleime cùng với trung đội trinh sát BB đụng phải hai tiểu đoàn Bắc Việt trong hầm hố, công sự phòng thủ gần tọa độ YA605503. Đơn vị này bị hỏa lực của địch đàn áp, phải nằm tại chỗ, cho đến khi đại đội B, tiểu đoàn 1/14 vào bắt tay. Sau đó lực lượng bạn lui về phiá sau, gọi phi pháo yểm trợ. Đại đội DSCĐ Pleime có 1 binh sĩ tử trận, 1 LLĐB/VN, 2 LLĐB/HK, và 3 DSCĐ bị thương.

(10) Đại đội DSCĐ Buon Blech được đại đội DSCĐ Phú Túc lên thay ngày 25 tháng Mười Một năm 1966. Đơn vị mới đến không chạm địch nên ngày 26, bộ chỉ huy hành quân hoàn trả đơn vị xung kích Mike Force. Một đại đội DSCĐ thứ hai từ Buon Blech được trực thăng vận lên tăng cường cho tiểu đoàn 1/12 hôm 28 tháng Mười Một. Nhưng địch quân đã rút lui qua biên giới Miên. Chiến đoàn đặc nhiệm Prong chấm dứt cuộc hành quân lúc 12:00 giờ trưa, ngày 2 tháng Mười Hai. Tổng kết, quân Bắc Việt bị loại khỏi vòng chiến 272, 2 bị thương và 3 bị bắt làm tù binh. Lực lượng bạn có 27 tử trận, 83 bị thương và 5 mất tích. Chiến đoàn đặc nhiệm Prong tịch thâu được hai súng phòng không 12.7 ly, 25 AK-47.

(11) Chiến đoàn đặc nhiệm Prong là một phần trong hành quân Paul Revere IV. Tin tức tình báo cho biết địch quân xâm nhập vào khu vực phiá tây, vùng trách nhiệm của sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ. Đơn vị địch trong các trận đánh vừa qua thuộc hai trung đoàn 33 và 88 Bắc Việt.

(12) Sự tổn thất của lực lượng Dân Sự Chiến Đấu là do thiếu vũ khí tự động. Cuộc hành quân phối hợp cho thấy sự công hiệu việc xử dụng DSCĐ tìm địch cho các đơn vị Bộ Binh thuộc sư đoàn 4 BB/HK tiêu diệt. Các đơn vị DSCĐ rất thành công trong việc khám phá ra đơn vị địch.

Dallas, TX.
vđh



ĐẠI ĐỘI 3 MIKE FORCE
8/11/1966 – 12/11/1966

Clyde J. Sincere Jr., Commander, II Corps MF October ’66 – May ‘67



        Bối cảnh: trong thời gian tháng Mười Một năm 1966, lực lượng Xung Kích Mike Force trên quân đoàn II gồm có ba toán A LLĐB/HK, A-217, A-218, và A-219. Sau đó, thêm một toán A LLĐB được bổ xung để thành lập bộ chỉ huy B LLĐB, B-20. Lực lượng xung kích Mike Force co trên 1000 quân DSCĐ, đa số thuộc sắc dân Jarai và Rhade, một số ít thuộc các bộ lạc người Koho, Sedang, và các bộ lạc người Thượng khác trên vùng cao nguyên. Đạo quân DSCĐ này được sự chỉ huy của quân nhân Mũ Xanh, LLĐB/HK trong các toán A. Trong thời gian tôi phục vụ, không có quân nhân LLĐB/VN được chỉ định vào chức vụ chỉ huy.

        Tài liệu này ghi lại các hoạt động của đại đội 3 xung kích Mike Force, Mike Force quân đoàn II, trong chuyến hành quân phối hợp với các đơn vị Bộ Binh thuộc sư đoàn 4 BB/HK trong thời gian từ ngày 8 đến ngày 12 tháng Mười Một năm 1966 trong khu vực gần biên giới Việt-Miên và nơi phiá bắc thung lũng Plei Trap.

        Vào khoảng ngày 6 tháng Mười Một năm 1966, tôi được lệnh trình diện trung tá Eleazer “Lee” Parmly IV, chỉ huy trưởng, bộ chỉ huy B, liên đoàn 5 LLĐB/HK trên Pleiku. Lúc trình diện, trung tá Parmly chỉ thị cho tôi, chuẩn bị một đại đội xung kích Mike Force để tham dự hành quân phối hợp với hai đại đội Dân Sự Chiến Đấu, lấy từ trại LLĐB Dức Cơ, và Plei Djereng. Lực lượng DSCĐ hoạt động độc lập trong khu vực trách nhiệm của họ, thăm dò mục tiêu, tìm địch quân cho các cuộc hành quân “Lùng và Diệt” do sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ tổ chức trong khu vực phiá bắc trại LLĐB Plei Djereng, phiá nam sông Sa Thay, lên đến khu vực tam biên.

        Tôi chọn đại đội 3 xung kích Mike Force dưới quyền chỉ huy của trung úy Robert C. Jacobelly, đại diện lực lượng xung kích Mike Force trên quân đoàn II tham dự cuộc hành quân. Đại đội 1 Mike Force dưới quyền chỉ huy của trung úy Larry Dring, vừa lên thay trung úy Neal Y. Pickett, thuyên chuyển qua đơn vị LLĐB khác. Đại đội 1 sẽ làm trừ bị, ứng chiến nhận lệnh trực tiếp từ trung tá Parmly, chỉ huy trưởng B-20 LLĐB, hoặc đại tá Francis Kelly, chỉ huy trưởng liên đoàn 5 LLĐB/HK.

        Ngoài ra còn đại đội 2 xung kích Mike Force dưới quyền trung úy Gilbert Jenkins, sẽ trở về hậu cứ ngày 9 tháng Mười Một, sau chuyến hành quân Blackjack 21 (Lực Lượng Du Kích Lưu Động 777) trong thời gian từ ngày 9 tháng Mười đến 9 tháng Mười Một năm 1966. Một sự trùng hợp, khu vực hành quân của Blackjack 21 cũng là khu vực hành quân được trao phó cho đại đội 3 xung kích Mike Force trong ngày 8 tháng Mười Một.

        Trong hành quân Blackjack 21, đại đội 2 xung kích Mike Force đặt dưới quyền chỉ huy của đại úy James Fenlon, do chính đại tá Kelly chọn lựa mặc dầu tôi phản đối. Đại đội 4 xung kích Mike Force dưới quyền chỉ huy của trung úy Andrew Irzyk, vẫn còn trong thời gian tuyển mộ, tổ chức, huấn luyện, chưa sẵn sàng tham dự hành quân.

        Sáng ngày 8 tháng Mười Một năm 1966, đại đội 3 xung kích Mike Force gồm có trung đội trinh sát, bốn trung đội kinh binh được trực thăng vận từ căn cứ ở Pleiku đến bãi đáp Lane gần biên giới Miên, đã được một đại đội thuộc sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ an ninh. Đại đội 3 Mike Force dưới quyền chỉ huy của trung úy Jacobelly, còn có thêm trung sĩ nhất Frank Huff, Robert Ramsey và trung sĩ Danny Panfil.

        Đại đội xung kích Mike Force được lệnh lục soát khu vực hướng bắc, cách biệt với hai đại đội Dân Sự Chiến Đấu (Plei Djereng và Đức Cơ). Trong lúc thuyết trình kế hoạch hành quân cho vị chỉ huy trưởng, trung tá Parmly cố vấn, nên cho thêm mấy quân nhân Mũ Xanh tham dự cuộc hành quân. Tôi quyết định đi theo đại đội 3 Mike Force cùng với thượng sĩ Frank Quinn.         Các trực thăng UH1-D để đưa đại độỉ 3 Mike Force vào vùng hành quân không đủ nên phải bay nhiều chuyến, kết qủa trễ ba tiếng đồng hồ như dự trù.

        Sau đó đại đội Mike Force di chuyển lên hướng đông bắc. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, toán quân tiền phương, đụng nhằm một đơn vị phòng không của địch đang lập vị trí đặt súng. Trông thấy lính Mike Force, địch quân phát hoảng bỏ súng chạy, có lẽ chúng nghĩ rằng trực thăng sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ đang chở quân, đồ tiếp liệu đến vùng hành quân, không ngờ quân LLĐB. Nghe tiếng súng nổ, sĩ quan chỉ huy đại đội 3 Mike Force, “Jake” Jacobelly cùng với tôi chạy lên, và Jake bị một vết thương nhẹ nơi cánh tay, đó cũng là tổn thất duy nhất của đại đội Mike Force. Một điều đáng chú ý là Danny Panfil bắn chết một người lính Bắc Việt rất to con, rất có thể là cố vấn Trung Cộng. Đại đội Mike Force tịch thâu hai khẩu đại liên phòng không 12.7 ly cùng với 35 ba lô (cả một trung đội phòng không).

        Jake xin trực thăng chở ba lô tịch thâu được về bộ tư lệnh sư đoàn 4 BB, để phòng 2 sư đoàn điều tra thêm tin tức về địch quân. Hai khẩu đại liên phòng không 12.7 ly, Jake muốn giữ lại vì đó là chiến công của đơn vị và sẽ được thưởng. Tuy nhiên đại đội Mike Force vẫn phải tiếp tục di chuyển, lục soát, đem theo hai khẩu súng tịch thu của địch cùng với những thùng đạn là một gánh nặng cho binh sĩ, nên cuối cùng phải xin trực thăng đến đem đi.

        Lần này trực thăng Jake báo cáo về bộ chỉ huy B-20 LLĐB, xin một trực thăng đến một khoảng trống trên đường tiến quân của đại đội Mike Force chở hai khẩu súng phòng không cùng đạn dược về Pleiku. Tiếp tục tiến quân, lục soát, đại đội 3 Mike Force tìm thấy một căn cứ đóng quân bỏ trống cấp trung đoàn của quân đội Bắc Việt, với những dẫy nhà làm bằng tre, dưới những tàn cây rậm rạp, che kín mặt đất. Căn cứ đóng quân của địch có nhà ăn, nhà ngủ, khu huấn luyện. Jake ra lệnh phá hủy căn cứ của địch, trước khi rời khu vực, vào sáng ngày hôm sau. (đại đội 3 xung kích Mike Force tặng đại tá Frances Kelly một khẩu 12.7 ly, được trưng bầy trong bộ chỉ huy liên đoàn 5 LLĐB/HK ở Nha Trang. Vị chỉ huy trưởng cuối cùng là đại tá Mike Healy, đem khẩu súng về Hoa Kỳ. Hiện tại khẩu đại liên phòng không 12.7 ly của quân đội Bắc Việt do đại đội 3 xung kích Mike Force tịch thâu ngày 8 tháng Mười Một năm 1966 được trưng bầy bên ngoài viện bảo tàng Chiến Tranh Đặc Biệt John F. Kennedy, vị tổng thống Hoa Kỳ xây dựng đạo quân Mũ xanh LLĐB Hoa Kỳ).

        Sáng sớm ngày 9 tháng Mười Một, đơn vị Mike Force tiếp tục tiến quân theo lộ trình bắc, tây bắc dọc theo con đường vừa mới khám phá, đủ rộng để xe vận tải Molotova di chuyển. Tôi đi theo trung đội có nhiệm vụ “khuân vác” hai khẩu đại liên phòng không 12.7 ly đến bãi đáp trực thăng để đem về Pleiku.

        Mọi chuyện diễn ra êm xuôi, sau đó tôi đi theo đại đội 3 Mike Force. Jake xử dụng toán trinh sát đi đầu trục tiến quân. Khu vực đoàn quân đang di chuyển, có vẻ trống trải vì con đường di chuyển của địch, nhưng đến buổi trưa, đoàn quân vào trong một khu rừng với cành lá rậm rạp, âm u. Jake không rõ vị trí chính xác của đơn vị, nên cùng với Frank Huff, và Bob Ramsey dắt theo một trung đội hộ tống đi tìm một khoảng đất trống để xác định điểm đứng.

        Họ lên một sườn núi nằm hai bên con đường mòn. Trong khi Jake đang xử dụng bản đồ, điạ bàn để xác định điểm đứng, một binh sĩ báo động, có và tên địch đang di chuyển trên một con đường mòn nhỏ hướng tây bắc, về hướng trung đội Mike Force. Cả trung đội Mike Force báo động, nằm im chờ đợi. Khi mấy tên địch đến một thân cây đổ, nằm vắt ngang một giòng suối, trung đội Mike Force nổ súng, mấy tên lính Bắc Việt chưa kịp bắn trả lại một viên.

        Jake cùng với DSCĐ ra lục soát, họ tìm thấy dấu vết có người chạy thoát. Toán quân trải rộng ra tìm thấy người lính Bắc Việt nằm chết trong rừng cách chỗ bị “phục kích” khoảng 50 thước. Trung đội Mike Force thâu nhặt chiến lợi phẩm rồi quay trở về đại đội. Trong khoảng thời gian đó, nhiều tổ báo động cho biết những toán quân nhỏ của địch xuất hiện tại nhiều nơi. Jake ra lệnh cho đại đội dừng quân lập tuyến phòng thủ đêm. (Sau này tài liệu tịch thu được trong trận đánh giữa tiểu đoàn 1/12, sư đoàn 4 BB Hoa Kỳ cho biết, trung đoàn 88 Bắc Việt được lệnh tránh đụng độ với các đơn vị DSCĐ người Thượng. Họ đợi lính bộ binh Hoa Kỳ vào trận điạ mới tấn công. Và kết quả đêm ngày 10 tháng Mười Một, trung đoàn 88 Bắc Việt tấn công tiểu đoàn 1/12 dưới quyền trung tá J. “Dick” Lay. Tài liệu cũng cho biết cấp chỉ huy trung đoàn 88 xử dụng hơn một tiểu đoàn tấn công các đại đội DSCĐ do LLĐB/HK chỉ huy ngày 11/11/1966).

        Sáng sớm ngày 10, đại đội 3 xung kích Mike Force tiếp tục tiến quân về hướng tây, biên giới Việt-Miên. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, toán quân đi đầu báo động, nghe tiếng người nói phiá trước, và cả đại đội tản ra hai bên, phục kích. Sáu người lính Bắc Việt đầu hàng, rồi bỏ chạy, bị bắn chết tại chỗ ba tên, một bị thương nhưng chạy thoát, hai bị bắt sống.

        Sau đó, đại đội Mike Force di chuyển đến một khu vực trên bản đồ có tên là “Pali Wali Dry Lake Bed”, biên giới giữa hai quốc gia Việt, Miên. Đó là một hồ cạn nước, và Jake quyết định cho đại đội lập tuyến phòng thủ đêm bên bờ phiá đông. Một trung đội được lệnh lên nằm tiền đồn cách tuyến phòng thủ đại đội 200 thước. Tôi xin trực thăng về Pleiku và đem theo hai tù binh bắt được lúc ban chiều.

        Trong khi đại đội Mike Force lập tuyến phòng thủ đêm bên bờ hướng tây của hồ cạn, Bob Ramsey, Frank Huff cùng với trung đội trinh sát đi thám sát phiá bên kia hồ, trên phần đất Miên. Họ khám phá ra nhiều con đường mòn, được xử dụng rất thường xuyên. Trong lúc thám sát khu vực, họ có linh cảm những toán trinh sát của địch cũng đang theo dõi các hoạt động của đại đội Mike Force.

        Lúc trở về, Bob báo cáo những điều này lên cho Jake, và anh ta ra lệnh cho cả đại đội sẵn sàng ứng chiến. Trung úy chỉ huy đại đội Mike Force cũng tin rằng địch quân đang chuẩn bị... chuyện gì đó. Để tránh bị theo dõi và để cho địch bối rối, Jake đợi cho đến lúc gần tối mới xắp xếp vị trí đóng quân đêm. Đồng thời ra lệnh cho Bob và Frank đem một trung đội qua bên kia bờ hồ cạn, góc tây bắc nơi giao điểm của nhiều con đường mòn, làm tiền đồn.

        Ra đến vị trí nằm tiền đồn, Bob mới nhận thấy có nhiều con đường rộng lớn chứ không phải đường mòn. Anh ta ra lệnh cho binh sĩ Thượng đặt mìn Claymore, căn dặn phải làm gì khi bị tấn công, đường rút lui về đại đội. Bên này Jake chuẩn bị yếu tố tác xạ cho pháo binh 175 ly yểm trợ nhưng được cho biết, vị trí đóng quân của đại đội Mike Force đã ra ngoài tầm bắn đại bác 175 ly.

        Khoảng sáu giờ sáng hôm sau, trung đội tiền đồn báo động. Bob ra chỗ người lính Thương canh gác, trông thấy rõ ràng, đoàn quân Bắc Việt đang di chuyển đến vị trí đóng quân của trung đội tiền đồn. Binh sĩ người Thượng khai hỏa quá sớm làm lính Bắc Việt nổi điên. Toán lính tiền phương Bắc Việt khựng lại rồi biến mất. Frank Huff lập tức báo cáo cho Jake và xin pháo binh yểm trợ, nhưng được trả lời không có vì đơn vị đã ra khỏi tầm bắn đại bác 175 ly.

        Chỉ vài phút sau, quân đội Bắc Việt bắt đầu tấn công trung đội tiền đồn. Bob báo cáo lên cho Jake và được lệnh rút lui trở lại bên này bờ hồ cạn cùng với đại đội. Bob bắn một viên đạn mầu (flare, hỏa pháo) lên ra lệnh cho trung đội băng qua hồ cạn trở về phiá bên kia. Trong lúc rút lui, một binh sĩ bị trúng đạn nơi chân, nhưng vẫn qua được.

        Lúc đó súng đạn nổ vang khu rừng. Địch quân tấn công vào tuyến phòng thủ của đại đội Mike Force, và phi cơ quan sát FAC cùng với khu trục cơ A1 đang bao vùng. Loại phi cơ cánh quạt từ thời đệ nhị thế chiến yểm trợ “cận phòng” rất hiệu qủa, vì tốc độ bay chậm và thời gian “bao vùng” lâu hơn. Quân Bắc Việt đã mở ba đợt tấn công vào tuyến phòng thủ đại đội Mike Force nhưng bị đẩy lui. Quân bạn đã có tổn thất, thương vong. Chiếc FAC yêu cầu ném khói mầu đánh dấu bạn và địch để điều động thêm mấy phi tuần phản lực lên yểm trợ.

        Jake cùng với một binh sĩ Thượng bò lên tuyến đầu để ném qủa lựu đạn khói. Anh ta trông thấy đông đảo lính Bắc Việt, và khi vừa tung qủa lựu đạn khói ra, súng của địch lại nổ liên hồi, một viên trúng Jake, bị thương nặng nhưng vẫn còn tỉnh táo. Jake được Bob gọi thêm Danny Pamfil lên tiếp tay, lôi Jake vào bên trong phòng tuyến. Danny băng bó cho Jake rồi cuốn poncho để giữ ấm thân thể trong khi chờ trực thăng đến di tản. Trong khi đó Frank Huff thay Jake liên lạc với FAC để điều chỉnh trận oanh kích.

        Cùng lúc đó, một trực thăng chở Clyde cùng với đồ tiếp tế vào cho đại đội Mike Force. Chiếc trực thăng trúng nhiều đạn súng trường, Clyde vội vàng nhẩy ra khỏi chiếc trực thăng khi còn cách mặt đất khoảng 12 bộ, nhặt khẩu M-16 lên rồi chạy biến vào trong rừng. Bob nhớ lại lời Danny nói với anh ta “Cục cứt! anh ta (Clyde) chạy lạc hướng!”.

        Danny và Frank Quinn được chọn để đi tìm Clyde. Chỉ một lúc sau họ đem về được Clyde và Clyde tạm thời lên nắm quyền chỉ huy đại đội Mike Force. Đồng thời quân đội Bắc Việt cũng rút lui.

        Theo lời Clyde kể lại, sáng sớm ngày 11, một người vào trong phòng của anh cho biết, Jake cùng với đại đội 3 Mike Force bị một đơn vị cấp lớn chính quy Bắc Việt tấn công. Clyde chạy vào bộ chỉ huy B LLĐB, yêu cầu cho một trực thăng đưa anh ta vào trận điạ. Thật may, lúc đó có thiếu tá Al Cartwright, một phi công thâm niên trong phi đoàn trực thăng 281, biệt phái cho liên đoàn 5 LLĐB/HK và B-20 LLĐB đang có mặt và ông ta sẵn sàng chở Clyde cùng với đạn dược đem tiếp tế cho đại đội 3 Mike Force.

        Trong lúc đang bận rộn chất những thùng đạn lên trực thăng, trung úy Paul Hess, phụ tá trưởng ban 4 (tiếp liệu) cũng muốn đi theo. Tôi đồng ý và anh ta lên ngồi cạnh trung sĩ Hank Leonard, xạ thủ đại liên M-60 cửa bên phải. Tôi nói sơ qua hướng bay cho thiếu tá Cartwright biết, hồ cạn mà trực thăng xuống đón tôi chiều qua.

        Khi đến gần mục tiêu, Cartwright liên lạc với đại đội Mike Force và nhận được dấu hiệu khói vàng. Tuy nhiên lúc đó, đại đội Mike Force đã bị địch tấn công từ sáng phải lui về phiá sau, nên chiếc trực thăng đã bay quá đà. Chiếc trực thăng trúng nhiều đạn đại liên phòng không, cả hai Hess và Leonard đều chết ngay tức khắc. Viên phi công phụ cũng bị thương, và có lẽ cả người xạ thủ đại liên cửa bên trái cũng vậy. Thiếu tá Cartwright nói với tôi, phải bay lên cao, do đó tôi thủ khẩu M-16 nhẩy ra khỏi chiếc trực thăng...

        Trong khi đó, thiếu tá Cartwright khó khăn lắm mới lái được chiếc trực thăng trúng nhiều đạn bay về Pleiku. Ông ta cũng báo cáo tình hình chiến trường đang xẩy ra dưới đất, giữa đại đội 3 xung kích Mike Force và quân đội Bắc Việt.

        Đại úy Clyde Sincere nắm quyền chỉ huy đại đội Mike Force, sau khi duyệt xét lại tình hình, ông ta yêu cầu tiếp tế đạn dược. Đó cũng là một vấn đề, LLĐB/HK xử dụng M-16, binh sĩ Thượng đa số được trang bị Carbine M-1, vài khẩu M-2, hai trung liên BAR, hai đại liên 30 và mấy khẩu phóng lựu M-79. Tôi (đ/úy Clyde) yêu cầu tăng viện và được trả lời, một đại đội bộ binh thuộc sư đoàn 4 sắp vào vùng hành quân.

        Khoảng 2:00 giờ chiều, khu trục A1 Skyraider lên thả bom Napalm xung quanh tuyến phòng thủ đại đội Mike Force để cho địch quân phải tránh ra xa. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, chỉ huy phó B-20 LLĐB ngồi trên trực thăng chở đạn bay vào. Kinh nghiệm chuyến trực thăng trước do thiếu tá Cartwright lái, viên phi công “lạnh cẳng”, đạp những thùng đạn xuống từ trên độ cao 500 bộ, nhưng tất cả đều không bị hư hại (thùng đạn bị vỡ).



        Mấy tiếng đồng hồ sau, quân Mike Force có thể nghe tiếng đoàn trực thăng đưa đại đội bộ binh vào bãi đáp trực thăng ngay trên mặt hồ cạn. Có thêm quân tiếp viện, vấn đề phòng thủ trở nên vững chắc, bảo đảm hơn. Các thương binh đại đội 3 xung kích Mike Force được trực thăng tản thương đến đem đi, trong đó có Jake đã nằm kẹt trong chiến trường gần tám tiếng đồng hồ. Chúng tôi yêu cầu trực thăng di tản những binh sĩ Thượng tử trận, bị thương, nhưng coi bộ mấy ông phi công Lục Quân không thèm để ý đến người Thượng. Họ trả lời để “từ từ”, lo cho người Hoa Kỳ trước, làm tôi nổi nóng, lớn tiếng phản đối. (mấy tay này chưa từng sống, làm việc với người Thượng như LLĐB).

        Cho chắc ăn, để đám phi công khỏi “dọt” luôn, tôi ra lệnh cho Frank Quinn, Frank Huff, và Danny Pamfil lên mỗi người một trực thăng chở thương binh người Thượng về Pleiku. Cả ba LLĐB/HK cũng được lệnh ở lại Pleiku để lo an ủi thương binh, phụ giúp gia đình tử sĩ trong việc chôn cất những quân nhân người Thượng. Bob Ramsey cùng với tôi phối hợp với đại đội B, tiểu đoàn 1/12, sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ và phần còn lại của đại đội 3 xung kích Mike Force.

        Trung đoàn 88 Bắc Việt đã rút lui khỏi trận điạ. Bộ binh cùng với chúng tôi đi thâu dọn chiến trường. Chúng tôi đào một hố lớn chôn xác 58 binh sĩ Bắc Việt nơi phiá nam hồ cạn. Chúng tôi tịch thâu được nhiều vũ khí đủ loại trong đó có hai khẩu súng ngắn (K-54) do Nga Sô chế tạo. Hai khẩu súng ngắn này lấy được từ hai xác chết có lẽ của viên tiểu đoàn trưởng và sĩ quan hành quân Bắc Việt. Tôi cho Danny Pamfil một khẩu vì anh ta chiến đấu can đảm, còn khẩu kia, tôi cho Jake đang nằm trong bệnh viện. Tôi nghĩ rằng, trong những ngày sắp tới, có thể tịch thâu thêm khẩu súng ngắn (K-54) nữa... nhưng dịp may đó không bao giờ trở lại với tôi.

        Sáng ngày 12 tháng Mười Một, đại đội bộ binh cùng với đại đội Mike Force di chuyển về gần nơi đóng quân tiểu đoàn 1/12. Lúc đó, trung úy Larry Dring cùng với đại đội 1 xung kích Mike Force đã được trực thăng vận đưa vào vùng hành quân. Đại đội này sẽ tăng phái cho Bộ Binh cho đến khi cuộc hành quân kết thúc vào đầu tuần tháng Mười Hai. Đại đội 3 Mike Force sẽ được đưa về Pleiku nghỉ dưỡng quân và bổ xung, chấm dứt nhiệm vụ trong chiến đoàn đặc nhiệm Prong.



Dallas, TX.

vđh 


BIỆT KÍCH DELTA CHUCK ALLEN
Jim Tolbert



        Hành quân Delta, bộ chỉ huy B-52 LLĐB, trực thuộc liên đoàn 5 LLĐB/ HK. Hành quân Delta là một đơn vị đặc biệt cho các cuộc hành quân xâm nhập vào khu vực địch kiểm soát, để lấy tin tức tình báo tác chiến. Trên chiến trường Việt nam, hành quân Delta được thành lập trong năm 1964 và chấm dứt tất cả các hoạt động vào năm 1970.

        Trong sáu năm ngắn ngủi đó, hành quân Delta có không dưới mười bẩy vị chỉ huy trưởng, cấp bậc từ đại úy lên tới trung tá. Thời gian đảm nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng, trung bình là năm tháng. Tôi phục vụ trong hành quân Delta dưới quyền tám vị chỉ huy trưởng. Và trong số đó có Charles (Chuck) Allen, sau này về hưu với cấp bậc trung tá và nay đã chết. Biệt danh của ông ta trong đặc lệnh truyền tin là “Bành Ky” (Bruiser, người to con, ngang tàng). Ông ta là người “ngầu” nhất, làm việc hăng nhất, và nắm quyền chỉ huy đơn vị lâu dài nhất.

        Đối với Allen, làm việc phải đâu ra đó. Nhiệm vụ hành quân là trên hết, cần bất cứ điều gì, ông ta sẵn sàng cung cấp (cho). Lệnh ban ra cho tất cả mọi người trong đơn vị đều như nhau. Trong một chuyến hành quân ở Khe Sanh, ngoài vùng I chiến thuật, lúc đó các trưởng toán biệt kích Delta đều là sĩ quan. Một sĩ quan trẻ báo cáo đả bỏ quên khẩu súng trên chiếc trực thăng thả toán biệt kích, và yêu cầu được triệt xuất. Đang bay trên chiếc trực thăng chỉ huy, ông “Bành Ky” trả lời ngắn gọn, “Chặt một cành cây làm ngọn dáo và tiếp tục nhiệm vụ”.

        Thiếu tá “Chuck” Allen, “The Bruiser” đã dậy cho ông sẽ quan trẻ một bài học, để cho toán biệt kích lội trong rừng bẩy ngày. Và ông sĩ quan trẻ thủ quả lựu đạn phòng thân đủ bẩy ngày. Viên sĩ quan trẻ sau này trở nên một cấp chỉ huy giỏi trong binh chủng Biệt Động Quân Hoa Kỳ và được thưởng nhiều huy chương.

        Thực sự, ông ta rất dễ hòa đồng với đàn em, thuộc cấp, chỉ có dáng dấp bề ngoài “bắt nạt thiên hạ”. Allen cân nặng 250 cân Anh (hơn 100 kg), nhưng rất chắc chắn không có chút mỡ thừa. Trừ lúc làm việc, hành quân, ngoài ra ông ta rất vui vẻ, hơi tếu nữa là đằng khác. Tuy nhiên không ai qua mặt ông ta, hiểu rõ hơn ông ta về kỹ thuật hành quân viễn thám, xâm nhập, biệt kích, v.v...

        Tôi phục vụ dưới quyền thiếu tá Allen, 17 trong thời gian 18 tháng, ông ta phục vụ trong đon vị Hành Quân Delta mà chưa thấy ai than phiền điều gì về ông ta. Lúc nào ông ta cũng trầm tỉnh, không bọc lộ cảm xúc quá độ, ngay cả những người sống sót trở về cho là trường hợp “mừng ra nước mắt”.

        Hành quân Delta thành công nhất, nổi nhất trong thời gian thiếu tá Allen làm chỉ huy trưởng. Ông ta phục vụ trong đơn vị này mười tám tháng, lên làm trưởng ban 3 hành quân thay cho thiếu tá James Asente lên làm chỉ huy trưởng Delta trong tháng Bẩy năm 1967, trên căn cứ hành quân tiền phương An Hòa. Và ông ta cũng giữ chức vụ đó lâu hơn ai hết.

        Mặc dầu hành quân Delta tuyển chọn những sĩ quan xuất sắc từ Lực Lượng Đặc Biệt, rất nhiều người rất có khả năng. Nhưng thiếu tá Allen đích thân đảm nhận, luôn luôn bay theo những chuyến thả biệt kích xâm nhập hoặc triệt xuất. Ông ta đã bay hơn 1500 chuyến trên trực thăng chỉ huy (C&C). Đơn vị Hành Quân Delta nhận được huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ (PUC) cũng trong thời gian thiếu tá Allen làm chỉ huy trưởng.

        Hành quân Delta còn nhận được nhiều huy chương khác đủ loại, đủ quân binh chủng Hải, Lục, Không Quân và của chính phủ miền nam Việt Nam nữa. Nhiều huy chương nhận được hai lần. Riêng thiếu tá Allen được một Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc.

        Trung tá về hưu Charles “Chuck” Allen ra đi (chết) năm 71 tuổi vì bị bệnh về xương. Ông ta đã thoát chết một lần khi lên cơn đau tim, cưa một chân trước đó. Người lính biệt kích Delta ra đi trong bệnh viện Cape Fear Valley Hospital, thành phố Fayetteville, tiểu bang North Carolina.




Dallas, Texas
vđh



BIỆT KÍCH DELTA
Robert J. "Mo" Moberg



        Phi hành đoàn trên chiếc trực thăng gồm có: chuẩn úy Johnson, cơ khí trưởng Smith, xạ thủ đại liên (không chắc chắn), một người lính trẻ tên là Gourley, tôi ngồi ghế bên trái, và trung sĩ nhất Walter “Doc” Simpson điều khiển sợi dây câu toán biệt kích.

        Toán biệt kích Delta bị địch săn đuổi, đã lẩn tránh hai ngày. Thiếu tá Eldon(?) Smith ngồi trên trực thăng chỉ huy cùng với thiếu tá Charles (Bruiser) Allen, chỉ huy đơn vị hành quân Delta. Toán biệt kích lẩn trốn trong rừng vẫn chưa tìm được một bãi đáp trên một rặng núi. Phi cơ quan sát FAC nhìn thấy toán biệt kích qua một khoảng trống, không bị lá cây che khuất giữa rừng núi mênh mông. Một trực thăng bay vào, thả dây câu xuống lôi lên được ba nguời, một Hoa Kỳ hai Việt Nam, đổi lại chiếc trực thăng bị trúng đạn nhiều chỗ.

        Ngồi trên chiếc trực thăng chỉ huy, hai ông thiếu tá Smith, và Bruiser ra lệnh cho chiếc trực thăng “bốc” bay ra khỏi khu vực nguy hiểm và ra lệnh cho trung sĩ nhất Orville G (Robbie) Robinette, trưởng toán biệt kích Delta vẫn còn ở dưới đất “Xắp xếp theo thứ tự và tìm một bãi đáp an toàn” (Get your shit in order and find a safe LZ!). Robbie trả lời ông xếp tỉnh bơ “Tôi đã xong thứ tự, đang tìm con chuồn chuồn mà ông hứa sẽ đem chúng tôi ta” (I got my shit in order. I’m just looking for that slick you promised would get us out here).

        Biết rằng toán biệt kích vẫn còn ba người ở dưới đất, sẽ không đủ sức chống cự với địch quân lâu dài, tôi yêu cầu trực thăng chỉ huy cho phép tôi bay thật thấp, sát đầu ngọn cây vào bốc toán biệt kích. Chiếc C&C cho tôi biết hướng bay, phải... trái... v.v... Tôi bay vào và trông thấy toán biệt kích ở dưới đất, qua một khoảng trống giữa mầu xanh của lá cây rừng trùng điệp. “Doc” thả sợi dây câu xuống thật nhanh, gần 200 bộ, vẫn chưa chạm mặt đất, tôi phại hạ thấp chiếc trực thăng thêm chút nữa. Đúng lúc đó, người cơ khí trưởng Smith báo cáo, trực thăng trúng đạn súng nhỏ của địch. Đồng thời “Doc” báo cáo, trung sĩ Jay Graves đả ngồi vào sợi dây, đang kéo lên. Chúng tôi không làm được gì hơn, đứng chịu trận, nếu bay đi, chắc chắn trung sĩ Graves sẽ bị cành cây đâm vào người chết.

        Cùng lúc, tôi có cảm tưởng như chiếc trực thăng từ từ bốc lên cao, kính chắn gío vỡ toang và khói tràn đầy trong phi cơ. Hình như phi cơ trúng B-40 của địch và bắt đầu dạt qua bên trái. Nhìn sang bên cạnh, Johnson cũng đang tái mặt hai tay nắm chặt cần lái nhưng không điều khiển được chiếc máy bay. Tôi quyết định cho chiếc trực thăng rơi trên đầu những ngọn cây cao khoảng 500 bộ trên thung lũng. Tiếp theo tôi chỉ biết chiếc trực thăng chúi mũi xuống ngọn cây rồi lật ngửa, nằm vắt ngang trên ngọn cây cách mặt đất khoảng sáu bộ.

        Tôi không mở được cánh cửa, hét thật to “Súng của tôi đâu?”. “Doc” nhét vào tay tôi khẩu súng M-16 của anh ta rồi nói “Đây, cầm khẩu của tôi rồi chạy ra khỏi chiếc trực thăng ngay!”. Tôi bò ra khỏi trực thăng, “Doc” và Smitty rơi ra khỏi chiếc trực thăng xuống đất, hình như bị gẫy xương sườn. Johnson, xạ thủ đại liên M-60 bò ra an toàn. “Doc” và tôi leo lên chiếc trực thăng trở lại lần nữa tháo khẩu đại liên M-60 và lấy túi đựng đồ cấp cứu, tôi tìm thấy khẩu CAR-15 của mình. Anh lính Mũ Xanh Graves chạy lại ôm tôi nói “Tôi biết, anh sẽ đến cứu tôi”.

        Trưởng toán biệt kích Robbie cũng chạy lại nói với tôi “Ông muốn nắm quyền chỉ huy không?”. Tôi trả lời, ông bạn đang làm được việc, cứ tiếp tục nhiệm vụ chỉ huy và muốn chúng tôi (phi hành đoàn trực thăng) làm gì. Robbie chỉ định vị trí chiến đấu và xạ trường cho chúng tôi, xắp đặt ổ phục kích  trên con đường mòn chạy ngang qua, gần chiếc trực thăng bị rơi. Thiếu tá “Bruiser” chỉ huy trưởng hành quân Delta, ra lệnh cho chúng tôi giữ vững vị trí chiến đấu, đợi ông ta tìm một bãi đáp và đem lên một đại đội xung kích thuộc tiểu đoàn 91 (Biệt Cách Dù) lên tiếp ứng. Tôi chia nước uống và đạn dược trong túi cấp cứu cho mọi người, trong khi “Doc” xắp đặt khẩu đại liên M-60 gần chỗ tôi.

        Tuyến phòng thủ của toán biệt kích trở nên im lặng lạ thường, tôi nằm thủ thế quan sát khu vực xạ trường. Bỗng tôi nghe có tiếng nói Việt Nam văng vẳng, rồi một tên địch xuất hiện cách chỗ bọn tôi bố trí khoảng 20 thước, nhìn xuống chân đồi. Khi người lính Bắc Việt dừng lại quan sát, tiểu đội của anh ta cũng lên đến nơi, đứng xung quanh anh ta. Tôi liếc qua Robbie chờ lệnh khai hỏa, anh ta cũng đang nhắm khẩu CAR-15 vào đám địch quân.

        Một tên trong đám, có lẽ là cấp chỉ huy quay đầu nhìn quanh, tôi nhìn thấy rõ ngôi sao đỏ trên nón cối anh ta đang đội. Nhìn thấy chiếc trực thăng nằm ngửa vất vưỡng trên đầu ngọn cây, tên chỉ huy vừa chỉ tay vừa la lớn. Cùng lúc các khẩu súng của toán biệt kích khai hỏa, tên chỉ huy ngã xuống. Tiếng đạn đại liên M-60 nổ chát chúa cùng với tiếng lựu đạn nổ vang dội khu rừng, tiểu đội lính Bắc Việt bị đốn ngã. Trưởng toán biệt kích Robbie đưa tay ra hiệu ngưng bắn, rồi ra lệnh rút đi đến một điểm khác nơi hướng bắc một triền núi, gần chiếc trực thăng lâm nạn, lập vị trí phòng thủ trong đám cỏ tranh cao.

        Nằm ẩn trong đám cỏ tranh, bọn tôi không quan sát được xa, nghe tiếng địch quân kéo nhau tới bên kia triền núi bắn bâng quơ vào những cành cây trên đầu toán biệt kích. Một nhân viên phi hành đoàn sợ hãi, run lẩy bẩy. Tôi sợ anh ta nổ súng bất ngờ, lộ vị trí đang trú ẩn nên bò lại vỗ lên vai anh ta trấn an.

        Vài phút sau, trưởng toán biệt kích Robbie bò lại nói nhỏ vào tai tôi, đại đội xung kích đã vào đến nơi, tất cả theo anh ta di chuyển lên hướng bắc. Khi chúng tôi ra khỏi chỗ trú ẩn, nghe được tiếng Việt, địch quân la hét, gọi nhau um xùm, rồi có tiếng súng nổ phiá trước. Graves nói với tôi, tình cờ gặp một tên địch, anh thiếu úy LLĐB/VN nói “Chúng tôi không có vũ khí”, rồi Graves và anh thiếu úy LLĐB/VN nổ súng giết chết tên địch. Tôi băn khoăn, tại sao mình không bắt sống địch quân?

        Chúng tôi tiếp tục đi, rồi xuống một sườn đồi về hướng đông toán quân Bắc Việt. Tôi để ý Smitty có vẻ mệt mỏi vác khẩu đại lên M-60 nên đổi khẩu CAR-15 ngắn gọn cho anh ta. Toán quân tiếp tục đi khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ sau gặp đại đội xung kích Việt Nam. Đại đội này làm thành một tuyến phòng thủ, bảo vệ một bãi đáp nhỏ bên một giòng suối, dưới chân đồi.

        Một trực thăng cỡ lớn CH-46 của TQLC/HK vào đón toán biệt kích cùng phi hành đoàn chiếc trực thăng lâm nạn. Khi chiếc CH-46 bốc lên cao, họ bắn đại liên xuống dưới loạn xạ, coi bộ không cần biết có đại đội xung kích Việt Nam đang ở xung quanh khu vực bãi đáp.

        Chiếc trực thăng CH-46 đáp ở Đông Hà để lấy thêm nhiên liệu và quan sát những chỗ trúng đạn. Lúc đó tôi mới khám phá ra, bộ quần áo rẻ tiền “Cọp Vằn” biệt kích rách tả tơi. Một trực thăng khác thuộc phi đoàn 281 bay đến đón chúng tôi, đưa về phi trường Phú Bài.

        Thiếu tá Smith đứng đón chúng tôi tại bãi đáp trực thăng, ông vòng tay ôm vai tôi chúng mừng. Tất cả vào trung tâm hành quân, thuyết trình chuyến đi vừa qua, sau đó thiếu tá “Bruiser” cho tất cả mọi người về căn cứ ở Đà Nẵng nghỉ ngơi. Chúng tôi, người nào cũng được thưởng huy chương.



Dallas, TX.

vđh

BIỆT KÍCH DELTA NGŨ HOÀNH SƠN
23/8/1968 KHÔNG ĐÚNG CHỖ, KHÔNG ĐÚNG GIỜ

Jim Tolbert



        Theo sự hiểu biết sâu nhất của tôi, Charles “Chuck” Allen, hiện giờ đã chết, cựu chỉ huy trưởng Hành Quân Delta, bộ chỉ huy B-52, liên đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, chưa bao giờ trao cho một đàn em, một quân nhân phục vụ trong Hành Quân Delta điều luật 15, ra trước toà án quân sự.

        Nhưng chuyến trở lại Việt Nam, sau khi được đi phép lần thứ hai (R&R), trung sĩ nhất Harry D. “Crash” Whalen, thường vụ đơn vị, gọi tôi vào trình diện, nói rằng “Bruiser (danh hiệu thiếu tá Allen, chỉ huy trưởng Delta) đã chán ngấy mấy thằng (ba gai) được đi phép một tuần, trở về đơn vị trễ thêm một tuần, viện cớ không xin được phi vụ. Thằng nào làm nữa, tôi sẽ trừng trị thẳng tay để làm gương. Và bây giờ Tolbert, có lẽ anh là người này”.

        Tôi đứng sững trong phòng nhân viên, bộ chỉ huy Hành Quân Delta ở Nha Trang, trở nên đần độn, không biết tính sao. Tôi trở về đơn vị trình diện trễ ba ngày, sau chuyến đi phép bẩy ngày. Và chuẩn bị nhận bản điều luật 15, vào quân lao và ra trước tòa án quân sự. Những kỷ niệm thời ấu thơ, lúc bị phạt sống dậy trong tôi làm tôi nổi nóng, coi trời đất bằng vung, không cần biết đến thường vụ Crash Whalen, chỉ huy trưởng Bruiser, Delta. Tôi lớn tiếng cãi lại “Điều luật 15 là cái đếch gì! Cứ đưa tôi ra tòa án quân sự!”.

        Ông thường vụ Crash cũng đúng phần nào... nhiều tay ba gai đã lợi dụng sự dễ dãi của đơn vị. Trong binh chủng LLĐB, không ai có thể “sỏ lỗ mũi” của bạn, ai cũng biết nhiệm vụ, phần hành của mình.  Chúng tôi không cần phải có người để ý, theo dõi, chỉ bảo như những binh chủng khác trong Lục Quân. Xét lại, tôi dám chắc, người nào cũng “cộng thêm” một, hai ngày vào những ngày đi phép.

        Những điều tôi vừa lớn tiếng nói ra làm ngạc nhiên ông trung sĩ nhất thường vụ Hành Quân Delta. Ông ta hỏi lại bằng giọng nhỏ nhẹ “Đó là lý do cho sự đi phép trễ của anh? Tôi đã nghe rõ ràng. Anh còn lý do nào nữa không?”. Diaz, một hạ sĩ quan hành chánh trong đơn vị cũng nhìn tôi như muốn nói “Hà hà Tolbert! Ông bạn trình diện đúng chỗ, đúng lúc. Thử xem ông bạn “có thuốc” chạy được vụ này không?”

        Tôi trả lời trung sĩ nhất thường vụ Crash “Crash, ông không tin, nhưng tôi đi thăm Bộ Chỉ Huy Bắc (CCN, đơn vị MACV – SOG) ở Ngũ Hoành Sơn (Đà Nẵng), hai ngày cuối cùng”.

        Ngũ Hoành Sơn là tên đặt cho khu vực, có năm ngọn núi đá hoa (marble) nhỏ, cách Đà Nẵng khoảng 10, 12 dặm về hướng nam. Ngũ Hoành Sơn được bao bọc bởi một giòng sông và quốc lộ 1, năm ngọn núi đứng sừng sững, lặng lẽ như canh gác bờ biển. Người dân làng trong khu vực đã lấy đá hoa từ trên núi từ nhiều thế hệ. Họ điêu khắc, trạm trổ đồ vật đá hoa rất đẹp, được trưng bầy bán cho du khách trong những cửa tiệm ngoài phố Đà Nẵng. Lần trước ghé Đà Nẵng, tôi cũng mua một con cá bằng đá hoa, tuyệt đẹp.

        Ngọn núi cao nhất trong năm ngọn có đá hoa mầu hồng, nằm gần bãi biển. Tên riêng của ngọn núi này là Thụy Sơn, hay Kim Sơn tùy theo người trả lời. Trên núi có nhiều hang động và “người anh em ở phiá bên kia” đã có lần xử dụng làm nơi ẩn náu. Một bức tượng Phật lớn nằm ngay yên ngựa, chỗ thấp nhất nối liền hai ngọn núi, nhìn xuống nơi đóng quân của một đơn vị cơ giới TQLC/HK ngay dưới chân núi. Họ (TQLC/HK) đặt trên núi một đại bác không dật 106 ly gần chỗ tượng Phật.

        Từ núi Thụy Sơn nhìn về hướng bắc ra Đà Nẵng, dọc theo bờ biển, có nhiều căn cứ quân sự của người Hoa Kỳ trong đó có phi trường. Bộ chỉ huy Bắc (CCN) cũng có một căn cứ hành quân tiền phương (FOB 4) ở đó, nằm cách một bãi biển rất nổi tiếng “China Beach” đã được dùng làm nơi quay phim khoảng hai cây số về hướng nam. Căn cứ hành quân tiền phương (FOB 4 của đơn vị SOG), có chung bãi biển với bộ chỉ huy C1 Lực Lượng Đặc Biệt, nơi hướng bắc năm ngọn núi Ngũ Hoành Sơn.

        Có lẽ tôi đã “bắt trúng đài”. Nghe câu trả lời của tôi, ông thường vụ Crash chớp mắt, ngước lên nhìn tôi. Ông ta đã nghe nói đến chuyện căn cứ hành quân 4 của đơn vị SOG bị nội tuyến và đặc công tấn công, làm chết 17 quân nhân LLĐB (cũng từ LLĐB được tuyển chọn) Hoa Kỳ. Và cũng như tôi, như nhiều biệt kích Delta khác, có bạn phục vụ trong đơn vị lừng danh SOG (đuợc xem như một huyền thoại trong trận chiến Việt Nam).

        Trung sĩ nhất thường vụ Crash hỏi tôi “Chuyện xẩy ra như thế nào? Những ai bị chết? Và anh làm gì ở đó, nơi Ngũ Hoành Sơn? Anh phải nghỉ ngơi” (quân nhân Hoa Kỳ đi phép được đưa qua Hawaii tắm biển giải trí).

        Tôi trả lời “Tôi trở lại Việt Nam hôm thứ Năm, nhưng không có phi vụ đi Nha Trang, nên ghé vào căn cứ hành quân 4 của SOG thăm bạn bè”.

        Thực sự, hôm đó bộ chỉ huy Bắc (CCN) có buổi tiệc thăng cấp lớn, nên nhiều người về từ khắp nơi. Ngoài ra họ có buổi họp hàng tháng về Hành Quân và Tình Báo, nên tất cả cấp chỉ huy các căn cứ hành quân tiền phương cùng ban tham mưu của SOG đều có mặt. Hơn nữa bộ chỉ huy Bắc (CCN) cũng vừa mới từ ngoài phố Đà Nẵng di chuyển đến căn cứ nơi Ngũ Hoành Sơn, nên hôm đó vui lắm, cũng như ngày đại hội cho tất cả các quân nhân Mũ Xanh.

        Hôm đó trong bộ chỉ huy Bắc rất đông người, mấy phòng ngủ đều chật cứng, nên tôi phải chạy qua bộ chỉ huy C1 LLĐB xin ngủ nhờ và họ cho ở tạm trong dẫy nhà dành cho khách vãng lai, sát bờ biển. Sau khi cất đồ đạc, tôi vào câu lạc bộ uống bia với mấy người bạn. Sau chuyến nghỉ phép, tôi uống không lại và trở về phòng ngủ lúc 11:30 đêm.

        Tôi đang ngủ ngon lành chợt giật mình, súng nổ vang dội như ở dưới điạ ngục. Lúc đó tôi vẫn còn đang mặc quần áo trận, say quá về phòng lêo lên giường ngủ luôn, nên chạy ra cửa phòng quan sát cẩn thận, rồi chạy xuống một căn hầm gần nhất, trong khi đạn lửa xanh đỏ vẫn như đan lưới. Bên kia hàng rào, căn cứ hành quân tiền phương 4 (FOB 4) của đơn vị SOG như sáng rực lên vì khi tiếp liệu bị cháy.

        Tiếp theo là những hỏa châu từ dưới đất bắn lên soi sáng căn cứ để thanh toán những tên đặc công còn sót lại. Tôi nghe nhiều tiếng nổ lớn, hình như trung tâm hành quân FOB 4 cũng bị cháy lan tới. Trong lúc khủng hoảng, tôi không biết phải làm gì, muốn chạy sang tiếp cứu đồng đội, bạn bè nhưng súng đạn không có. Tôi tự hỏi, mình làm được gì hở ông Trời! Tôi đã hết phép từ hôm qua, đúng ra nên có mặt ở Nha Trang... Rõ ràng, tôi đang ở không đúng chỗ, không đúng giờ.

        Một tiếng đồng hồ sau, tôi lần mò vào nhà ăn của bộ chỉ huy C1 LLĐB. Đã có vài khuôn mặt ở đó nhưng họ cũng chẳng biết gì hơn tôi. Tôi lấy một điếu thuốc lá ra châm lửa hút, rồi nguyền rủa quân chủng Không Quân, không có chuyến bay cho tôi ra khỏi địa ngục.

        Lúc đó, trung sĩ nhất Harmon “Preacher” Hodge, thường vụ bộ chỉ huy C1 bước vào trong nhà ăn. Ông ta nói cho mọi người biết “Đặc công đột nhập vào bộ chỉ huy Bắc (CCN). Giữ “cái đít” của các bạn ở chỗ thấp (ngồi bệt xuống đất), và đừng lảng vảng nơi hàng rào ngăn chia hai bộ chỉ huy”. Tôi lắng nghe biết mình hoàn toàn bất lực.

        Ngồi trong phòng ăn được một lúc, tôi lần mò vào trung tâm hành quân, bộ chỉ huy C1, với hy vọng giúp được chuyện gì, hoặc ai đó trao cho tôi khẩu súng. Nhưng C1 LLĐB đang có vấn đề của họ, ba trại LLĐB biên phòng (toán A LLĐB) trực thuộc bộ chỉ huy C1 đang bị tấn công, tất cả mọi người trong trung tâm hành quân đều bận bịu, trả lời điện thoại, liên lạc trên máy vô tuyến, chấm lại bản đồ v.v... Chẳng ai buồn để ý đến sự có mặt của tôi.

        Tôi có một cảm giác hơi lạ, trong bộ chỉ huy C1 LLĐB này, tôi nêu vấn đề chuyển xẩy ra ngay bên cạnh, bộ chỉ huy Bắc của SOG, không một ai thèm để ý. Tôi hỏi một đại úy trẻ và được trả lời “Không đáng bận tâm. CCN có đủ nhân lực để lo chuyện của họ.”

        Trên bầu trời lúc đó có một AC-130 “Spectre” lên bao vùng, bắn xuống từng tràng đại liên minigun sáu nòng. Chiếc phi cơ võ trang bắn dọc theo hướng tây nam căn cứ, ra đến chân núi Thụy Sơn. Khoảng một tiếng đồng hồ trước khi trời sáng, hai trực thăng H-34 thuộc phi đoàn 219 “King Bee” thuộc không lực VNCH đáp xuống bộ chỉ huy Bắc. Tôi biết họ làm việc với đơn vị SOG, nên cảm thấy an tâm. Trận đột kích của đặc công vào bộ chỉ huy Bắc coi như kết thúc.

        Khi trời sáng, trong căn cứ bộ chỉ huy Bắc, một điạ ngục hiện ra, phòng chứa đồ tiếp liệu chỉ còn lại đống tro tàn. Tiếng súng không còn nữa, thay bằng tiếng còi hụ xe cứu thương, kéo lên từng chập. Một đoàn xe cứu thương đến từ bệnh viện dã chiến 95 Hoa Kỳ đậu thành hàng dài ngay trước cổng căn cứ.

        Tổng kết trận đánh, 17 quân biệt kích SOG Hoa Kỳ bị giết, số binh sĩ người Thượng tử trận có lẽ nhiều gấp đôi, mọi người đều công nhận các binh sĩ người Thượng đã cứu sống họ.

        Một trung sĩ liên lạc Không Quân của bộ chỉ huy Bắc, dành cho tôi một chỗ trên chuyến máy bay đi Nha Trang. Ai dè chuyến này vòng về Saigon lấy thêm đồ tiếp liệu cho đơn vị SOG trước khi đến Nha Trang. Tôi đã quá mệt mỏi, đi bộ ngang qua trung tâm hành quân của bộ chỉ huy LLĐB, rồi theo con đường đất đỏ đến khu vực dành riêng cho Hành Quân Delta. Tôi không còn nhớ gì hơn nữa... tôi đã quá mệt mỏi.

        Trung sĩ nhất thường vụ Crash vẫn lắng nghe đầu đuôi câu chuyện. Cuối cùng ông ta nói với tôi “Thôi, trở về toán của anh. Tôi sẽ trình lại “Ông Gìa” (thiếu tá Bruiser) , rồi sẽ cho anh biết sau”. Trung sĩ Diaz vẫn cặm cụi làm việc... trong đầu anh ta lần này như muốn nói “Bạn đã “nói” (lôi kéo) cho bạn ra khỏi đống phân. Tolbert”.



Dallas,

vđh



 
BIỆT KÍCH CHẠY ĐƯỜNG MÒN
HÀNH QUÂN DELTA (ROAD RUNNER)
Bill Walker 17

Ghi chú: Tài liệu dưới đây viết về toán biệt kích “Chạy Đường Mòn” (Road Runner), do một phi công trực thăng thuộc sư đoàn 101 Nhẩy Dù Hoa Kỳ (Screaming Eagle) viết lại. Hành quân Delta yêu cầu không yểm và các vùng chiến thuật, cũng như đơn vị cấp sư đoàn, yêu cầu hành quân Delta, do đó mới có tài liệu này.

        Tôi mới được lên làm phi công chính vài tuần lễ, trong thời gian ít có trận đánh lớn, lúc lên căn cứ Mai Lộc thay thế cho Gene Miller. Sự ra đi của Gene cùng với phi hành đoàn là một mất mát lớn, gánh nặng trên đôi vai cho tất cả mọi người. Tôi cũng không dám nghĩ mình có thể thay thế một sĩ quan tài ba như Miller, tôi chỉ là một phi công trong bảng phong thần.   
        Dầu thế nào chăng nữa, hành quân Delta vẫn còn là một điều bí mật đối với tôi. Lancers cũng mới làm việc với đơn vị này được vài ngày, và đã nghe nói nhiều về những huyền thoại, những nguy hiểm trong hành quân Delta. Thực tình mà nói, tôi hơi khớp, vì mình chưa có đủ kinh nghiệm hành quân, chiến đấu.
        Tôi bay lên căn cứ Mai Lộc, đáp chiếc trực thăng xong là chạy vào căn lều được xử dụng làm trung tâm hành quân ngay. Mọi người vẫn còn ưu tư về chuyện ra đi của Miller, tôi được thuyết trình ngắn gọn về khu vực hành quân. Cấp chỉ huy dặn dò thêm, vì tôi mới lên khu vực hành quân nên chỉ bay theo (trực thăng phụ). Điều này có nghiã, tôi chỉ bay theo đóng vai phụ, nhìn chiếc trực thăng thả toán, hay “bốc” toán biệt kích Delta xâm nhập khu vực địch kiểm soát.
        Chiếc trực thăng chính đem theo lưới cấp cứu và dây câu, trường hợp phải kéo cả toán biệt kích ra khỏi đám cỏ tranh cao hơn đầu người nơi hướng tây căn cứ Khe Sanh. Trong hành quân biệt kích Delta, trực thăng chính chở toán biệt kích, chiếc trực thăng chỉ huy (C&C) và chiếc bay theo, sẽ bay theo đội hình Delta (hình tam giác, chữ D Hy Lạp) trên cao độ 4500 bộ (feet).
        Khi hợp đoàn trực thăng đến bãi đáp hay điểm “bốc” toán biệt kích, trực thăng chính sẽ bay vòng trên bãi đáp. Hành quân Delta không xử dụng khói mầu, dùng panô (tấm vải mầu cam hoặc đỏ, từ trên trời nhìn xuống trông rất rõ) để nhận diện, tùy theo sự liên lạc với toán biệt kích ở dưới đất.
        Buổi thuyết trình chấm dứt với tiếng còi hụ báo động, làm tôi “lạnh” người. Tôi được lệnh chạy ra trực thăng bay theo hai chiếc trực thăng chỉ huy và chiếc thả biệt kích. Họ sẽ cho tôi biết tình hình hành quân trong lúc đang bay.    
        Khi hợp đoàn trực thăng bay qua một rặng núi, tôi được cho biết trên tần số KY28 một toán biệt kích đang đụng nặng với địch quân cấp đại đội và đang bỏ chạy. Chúng tôi bay ngang qua căn cứ Khe Sanh đã bỏ hoang, và tiếp tục bay về hướng tây, biên giới Lào Việt. Cuối cùng, tôi trông thấy tấm panô ở dưới. Tôi vẫn tin tưởng mấy tay đang bay chiếc trực thăng chỉ huy, được họ cho biết mấy tấm panô xếp đúng theo đội hình. Tuy nhiên vẫn dặn tôi một lần chót “Toán biệt kích chỉ có năm người, nếu trông thấy sáu... giết tất cả”.
        Tôi bay trên đầu mục tiêu, theo lệnh trực thăng chỉ huy vào bải đáp, một bãi cỏ tranh rộng khoảng 25 bộ (feet). Trong khi chăm chú theo dõi đường chân trời để giữ chiếc trực thăng thăng bằng, tôi nhìn thấy một góc nhà tù do người Pháp xây trước đây, về phiá bên trái là giòng sông Tchepône chia đôi hai quốc gia Việt, Lào.
        Nơi bãi đáp, nhiều tiếng động rất lớn, ồn ào, cả tiếng súng tiểu liên nữa. Phi hành đoàn trên chiếc trực thăng của tôi đã quen nhiệm vụ, vẫn bình tĩnh và đang thả thang dây xuống thay vì lưới cấp cứu và dây câu. Toán biệt kích Delta nhanh chóng leo lên thang dây và chui vào bên trong bụng chiếc trực thăng. Tôi nghe tiếng một người nói lớn, nghe không rõ chỉ đoán “Chúng ta bay lên”. Chuyến đi bay “bốc” toán biệt kích đầu tiên làm tôi hơi khủng hoảng... quá nhiều tiếng động, ồn ào nghe lệnh lạc trên máy truyền tin không rõ lắm. Theo bản năng, tôi liếc vội ra đằng sau, và... thót bụng, như muốn “ị” ra quần. Toán biệt kích Delta vừa mới leo lên phi cơ là người Việt Nam và họ ăn mặc quân phục lính Bắc Việt, võ trang tiểu liên xung kích AK-47. Y trang! Đúng bộ cùng với nón cối. Cũng may, có người đưa tay vẫy, mỉm cười, nếu không... Mới đi bay lần đầu, đã “bốc” nhầm “đám bê bối” (The Bad Guys, VC/NVA).
        Gặp trường hợp “bốc” nhầm người, chắc tôi lao chiếc trực thăng này vào sườn núi. Tôi không muốn ra Hà Nội, ở khách sạn Hilton (nhà tù Hỏa Lò) thei kiểu này. Có tiếng Keith từ chiếc trực thăng chỉ huy, nói trên hệ thống truyền tin. Anh ta, có lẽ biết tôi đang “đổ mồ hôi” trấn an, cho biết, toán biệt kích “Chạy Đường Mòn” trong hành quân Delta, ăn mặc quần áo biệt kích lúc ở căn cứ, nhưng khi xâm nhập vào vùng địch, họ ăn mặc, trang bị như lính Bắc Việt để dễ trà trộn, theo dõi, lấy tin tức về đơn vị địch. Tôi cảm thấy an tâm, nhưng vẫn ao ước... làm ơn nói cho tôi biết trước... chuyện gì sẽ xẩy ra.
        Sau vụ mất một chiếc trực thăng cùng với phi hành đoàn kinh nghiệm. Chuyến bay “xanh mặt” đầu tiên của tôi cùng với phi hành đoàn mới, được mọi người trong nhóm trực thăng làm việc trong hành quân Delta kể nhau nghe như một câu chuyện vui.

Dallas, Texas
vđh


TOÁN BIỆT KÍCH VIPER
Special Forces First Sergeant Alan G. Cornett, who served in Vietnam from 1966 to 1973



        Ngày 29 tháng Mười Một năm 1966, tôi chứng kiến trung sĩ Russ Bott và trung sĩ Willie Stark cùng với bốn biệt kích quân Việt Nam lên trực thăng đi hành quân. Tên gọi của toán biệt kích Delta có biệt danh là Viper và khu vực họ sẽ xâm nhập nằm ngay sát biên giới Lào và miền bắc Việt Nam. Tất cả ăn mặc quần áo ngụy trang “cọp vằn”, trang bị đến tận răng để chiến đấu.

        Thời tiết hôm đó xấu, mây giăng thấp, mầu xám ảm đạm, mưa bay lất phất và những cơn gió lạnh. Với điệu kiện thời tiết như thế, sẽ gây khó khăn cho phi công trực thăng, có lẽ chuyến xâm nhập sẽ được hoản lại. Rồi, có ai để ý đến ý kiến của tôi. Sau này tôi được biết thêm, khi trực thăng bay gần đến bãi đáp để thả toán biệt kích, họ đang bay trên một lớp mây thật dầy, không nhìn rõ dưới đất. Trở ngại này làm cho các phi công trực thăng phải bay vòng ngọn núi để đến bãi đáp đã định sẵn.

        Các phi công trực thăng cũng có thể lấy lý do này bay về, không thả toán biệt kích, nhưng họ bị áp lực rất mạnh từ cấp chỉ huy trên cao, vẫn phải vào thả toán biệt kích để lấy tin tức của địch. Phải bay thật thấp mới thấy điạ hình điạ vật trên mặt đất, các phi công định hướng sai khi chọn giòng sông (Tchépone) để xác định điểm đứng. Khi các trực thăng thả toán biệt kích xong xuôi bay về, các sĩ quan tham mưu LLĐB trong hành quân Delta mới biết rằng, các phi công đã đáp lầm bãi đáp và toán biệt kích Viper đang ở “đâu đó” trên đất Lào. Trong căn cứ hành quân tiền phương Khe Sanh, đêm đó mưa lớn tạt vào chiếc lều tạm trú, có tôi nằm bên trong.

        Các cấp chỉ huy trong hành quân Delta đêm đó, bảo đảm sẽ ngủ không yên, họ ăn cũng không ngon, vì tất cả đang ngồi trên ngọn lửa. Có thể có một vụ scandal sắp xẩy ra, vừa mất mặt, mất việc (job), trong khi toán biệt kích Viper là nạn nhân, sẽ phải gánh chịu những đòn... vỡ mặt, vỡ mũi. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chắc cũng không được “mát mặt” khi được nghe những lời nguyền rủa “Quân đội Hoa Kỳ đã dùng trực thăng chở toán biệt kích xâm nhập nước Lào”.

        Sáng hôm sau, ngày thứ Năm, một máy bay liên lạc truyền tin của Lục Quân từ Đà Nẵng bay lên căn cứ hành quân tiền phương Khe Sanh. Viên phi công chạy vào trung tâm hành quân báo cáo, cả khu vực xâm nhập (sai bãi đáp) đã bị bao vây, toán biệt kích Viper đã chạm súng với địch, liên lạc với phi cơ quan sát yêu cầu cho biết vị trí  chính xác điểm đứng của họ.

        Theo lời viên phi công báo cáo, mọi người biết rằng, toán biệt kích Viper đã biết họ xuống không đúng bãi đáp, vùng hành quân xâm nhập. Đã bị lộ và chạm súng với địch. Sáng sớm hôm nay, họ đã liên lạc với phi cơ thám thính (FAC), yêu cầu xác định điểm đứng, báo cáo chạm địch và đang chạy về hướng đông bắc.

        Đến giữa buổi sáng, khoảng 10 giờ, gío đã ngừng thổi, lớp sương sớm đã tan, tôi có thể nhìn xa khoảng 200 thước. Nhưng từ trên trời nhìn xuống lại là vấn đề khác, lớp mây dầy đặc vẫn còn che phủ bầu trời. Một máy bay thám thính (FAC) do John Flanagan lái, đem theo một trung sĩ LLĐB hành quân Delta, ngồi ghế sau, cố tìm toán biệt kích Viper.

        Với kinh nghiệm, John Flanagan tìm được toán biệt kích, lúc đó vẫn còn trên đất Lào, dưới khu vực phi quân sự, và ngay giữa lòng một khu vực tình nghi có một trung đoàn Bắc Việt đóng quân. Trở về Khe Sanh, viên phi công FAC chỉ vào bản đồ hành quân vị trí toán biệt kích Viper. Họ đang ở cách khu vực hành quân xâm nhập (đúng) khoảng bốn, năm cây số về hướng tây bắc. Phi công John Flanagan cho biết thêm, nhìn thấy nhiều toán binh lính Bắc Việt với vũ khí, xung quanh khu vực toán biệt kích đang lẩn trốn (... đời đen).

        Qua ngày thứ Sáu, gió thổi mạnh, đem những đám mây đến khu vực Khe Sanh. Mưa vẫn rơi tầm tã, thời tiết trong ngày rất xấu. Tôi vẫn lo ngại cho toán biệt kích Viper, và một toán khác dưới quyền trung sĩ St. Laurent. Họ là những người đang... đi trong mưa gió. Chiếc máy bay bao vùng lại nhận được báo cáo từ toán biệt kích Viper, rằng họ lại chạm địch và lần này đã có người trong toán bị thương.

        Tôi đang ngồi trong lều, thượng sĩ Stamper bước vào bên trong, ra lệnh cho tôi chuẩn bị túi cứu thương, và sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào có lệnh. Đúng lúc đó, trung sĩ Irby Dyer bước vào. Thượng sĩ Stamper, bất ngờ phút chót thay đổi nhân sự, ra lệnh cho anh ta chuẩn bị chứ không phải tôi. Tôi lại ngồi xuống cái ghế bố...

        Vị chỉ huy quyết định mở cuộc hành quân, cấp cứu, triệt xuất toán biệt kích Viper. Hợp đoàn trực thăng cấp cứu gồm có một chiếc “bốc” chính, một chiếc phụ, một trực thăng chỉ huy và hai trực thăng võ trang. Thượng sĩ Stamper quay trở về trung tâm hành quân theo dõi các hoạt động hành quân Delta, trung sĩ Dyer (người phải đi thay tôi) ra bãi đáp trực thăng. Là nhân viên cứu thương, anh ta phải ngồi trên chiếc trực thăng bay vào cứu toán biệt kích.

        Tôi vội vàng băng bó cho một quân nhân LLĐB Việt Nam rồi chạy vào trung tâm hành quân để “nghe ké” chuyện gì sẽ xẩy ra. Tôi cùng với thượng sĩ Stamper ngồi chăm chú nghe lời đối thoại trên máy truyền tin, giữa hợp đoàn trực thăng cấp cứu và trung sĩ Russ Bott, trưởng toán biệt kích Viper. Trung sĩ Russ Bott báo cáo lên chiếc trực thăng chỉ huy, một quân nhân LLĐB Hoa Kỳ trong toán, trung sĩ Willie Stark đã bị thương nặng. Sau đó, người trưởng toán biệt kích lo âu hỏi, hợp đoàn trực thăng cấp cứu đã lên vùng chưa, toán Viper có người bị thương nặng nên không thể di chuyển được.

        Ngồi trong trung tâm hành quân nghe những lời đối thoại cũng “lạnh” người, vừa lo âu cho số phận toán biệt kích Viper. Có lúc chỉ nghe lời đối thoại một chiều... toán Viper bị tấn công, thêm hai người nữa bị thương nhẹ. Ngồi nghe những lời đối thoại, đôi lúc tôi cảm thấy tức tối, sôi gan. Hợp đoàn trực thăng vẫn chưa xác định được vị trí toán biệt kích ở dưới đất. Trong khi đó toán biệt kích báo cáo, nghe tiếng trực thăng bay ngang qua đầu nhưng không biết chiếc nào, không biết có phải chiếc vào “bốc” không. Cuối cùng, chiếc trực thăng chỉ huy gọi về Khe Sanh, yêu cầu John Flanagan lái chiếc máy bay thám thính (FAC) lên bao vùng, tìm giùm toán biệt kích.

        Phải công nhận, phi công lái chiếc FAC, Flanagan rất sốt sắng, chơi rất đẹp trong ngày hôm đó. Flanagan đem theo trung sĩ LLĐB Tommy Tucker ngồi ghế sau. Mặc dầu gío thổi rất mạnh trong khu vực Khe Sanh, Flanagan vẫn cất cánh bay về hướng biên giới Lào-Việt. Khi chiếc FAC vào đến khu vực hành quân, các trực thăng chỉ còn nhiên liệu để bay thêm 20 phút nữa. Flanagan gọi toán biệt kích Viper và nhận ra giọng trung sĩ Bott cùng tiếng súng AK-47 của địch và tiếng nổ lớn của lựu đạn. Quân Bắc Việt biết trực thăng đến cứu toán biệt kích xâm nhập nên tấn công quyết liệt.

        Trung sĩ Bott cho Flanagan biết, trung sĩ Willie Stark bị thương nặng, ba binh sĩ LLĐB Việt Nam đã chạy lạc. Hiện giờ chỉ còn anh ta cùng với Stark và đang bị địch quân bao vây, tấn công. Rất “thiện nghệ”, Flanagan nói Bott gõ “Morse” vào tay cầm máy truyền tin và anh ta sẽ dò theo tiếng Morse. Trung sĩ Russ Bott gõ chữ “Payoff”, và qủa nhiên có tiếng máy bay quan sát (FAC) bay ngang qua. Tiếp theo, Flanagan nói Bott tung một quả khói mầu, đánh dấu vị trí, để anh ta chỉ điểm cho trực thăng vào “bốc”.

        Một làn khói tím bay lên cao, Flanagan hỏi lại với Bott cho chắc chắn rồi bay trở lại chỗ làn khói tím bốc lên. Lần này Flanagan trông thấy toán biệt kích (chỉ còn lại hai người) đang trốn trong một đám cỏ tranh, cao hơn đầu người (cỏ voi, elephant grass) trên một triền núi. Không nghe tiếng súng địch bắn lên phi cơ, Flanagan điều động chiếc trực thăng “bốc” bay vào.

        Khi chiếc trực thăng bay vào trên đầu toán biệt kích, cả “thế giới” nổ bùng lên. Đám cỏ tranh, rẽ ra khắp nơi, đủ loại súng bắn lên chiếc trực thăng. Biết trực thăng sẽ vào cứu toán biệt kích, địch quân, xử dụng toán biệt kích Viper làm mồi bẫy trực thăng. Chiếc máy bay quan sát, bay vòng trở lại, bắn xuống một quả hỏa tiễn “Willie pot” khói trắng, đánh dấu mục tiêu cho hai trực thăng võ trang vào oanh kích.

        Chiếc trực thăng trúng đạn cố bay lên, trôi dạt về phiá trái khoảng 200 thước, khựng lại, rồi tiếp tục bay nghiêng qua bên trái, lộn ngược rồi đâm xuống đất. Chiếc trực thăng cháy bùng lên, lăn xuống sườn đồi. Tất cả mọi người trên trực thăng đều tử nạn, gồm có hai phi công, hai xạ thủ đại liên và y tá LLĐB Irby Dyer. Hai chiếc trực thăng võ trang vòng lại đánh tour thứ hai, một chiếc trúng đạn, hư hỏng hệ thống điều khiển tác xạ. Một ngày xui xẻo trong hành quân Delta.

        Trong căn cứ Khe Sanh, chúng tôi xắp xếp lại câu chuyện kinh hoàng xẩy ra cho hành quân Delta. Chúng tôi nghe được giọng nói của vị chỉ huy trên chiếc trực thăng C&C, ông ta ra lệnh cho toán biệt kích Viper, tìm cách trì hoãn, di chuyển ra chỗ khác, tìm cách mưu sinh, thoát hiểm. Sau đó họ báo cho toán biệt kích biết, các trực thăng sắp hết xăng, phải quay trở về Khe Sanh lấy nhiên liệu.

        Có thể nói, toán biệt kích Viper bị bỏ rơi... không còn cách nào hơn. Máu nóng bốc lên trong người, tôi nghe tiếng nghiến răng. Thượng sĩ Stamper, đã đứng lên, trong ánh mắt dường như ông ta muốn nói với tôi “Mình phải đi cứu toán biệt kích Viper”. Tôi nghĩ thầm trong đầu “Có tôi nữa. Tôi cũng là một phần trong hành quân Delta”.

        Trong khi đó, trên chiếc máy bay quan sát FAC, phi công Flanagan phải chứng kiến, phải nghe những lời nói đau lòng nhất. Tuyệt vọng, trung sĩ Russ Bott, trưởng toán biệt kích Viper gọi chiếc FAC “FAC, làm ơn cứu bọn tôi. Chúng tôi bị nặng lắm!”. Đó là câu nói cuối cùng của toán biệt kích Viper nhận được trên hệ thống truyền tin. Đó là lời nói của một chiến binh can đảm, trưởng toán biệt kích Russ Bott đã không nghe lệnh cấp chỉ huy, bỏ rơi đồng đội, chạy một mình.

        Còn lại một mình, trên chiếc FAC chỉ có hỏa tiễn khói trắng “Willie pot”, Flanagan cũng biết chẳng làm được gì. Chàng không nỡ bay về, lượn vòng bắn mấy quả Willie pot xuống những vị trí đặt súng của địch, rồi bay vòng qua chỗ chiếc trực thăng lâm nạn, bốc cháy quan sát. Chỉ còn làn khói đen bốc lên, không thấy dấu hiệu có người sống sót ở dưới. Flanagan vòng trở lại chỗ toán biệt kích Viper. Đám cỏ tranh bị dập nát, lan rộng ra, như có nhiều người bước vào... Không thấy dấu vết của toán biệt kích...

        Chiếc máy bay quan sát FAC bay về căn cứ hành quân tiền phương Khe Sanh... trong nỗi cô đơn.



Dallas, TX. April 2, 2010

vđh


TIẾNG TRỰC THĂNG HUEY
Donald J. Taylor, Sergeant Major (Retired), U.S. Army Special Forces
Project Delta Recon Team Leader, July 1968 - July 1970

        Trực thăng Huey đã lỗi thời, quân đội Hoa Kỳ không còn xử dụng nữa, nhưng mỗi lần nghe tiếng trực thăng, tôi vẫn cảm thấy thân thương, như có một người bạn từ phương xa đến thăm. Trực thăng Huey đưa chúng ta đi hành quân và đem chúng ta về sau mỗi chuyến công tác.         Lần đầu tiên tôi nghe tiếng trực thăng khi chiếc máy bay đã gần hết nhiên liệu. Lúc đó Hành Quân Delta cùng với phi đoàn trực thăng tấn công 281 biệt phái, ra hành quân ngoài vùng 1 chiến thuật, tháng Sáu năm 1969.
        Chúng tôi thiết lập căn cứ hành quân tiền phương trong một căn cứ của TQLC/HK ở An Hòa, để cho các toán biệt kích xâm nhập, dò thám đường biên giới Lào-Việt, gần trại LLĐB bỏ hoang Khâm Đức. Một buổi sáng giữa tháng Sáu, toán biệt kích do tôi chỉ huy được “mời” vào trung tâm hành quân, nghe sĩ quan tham mưu Delta thuyết trình và nhận lệnh hành quân xâm nhập. Chúng tôi nhận nhiệm vụ dò thám một khu vực hành quân (AO) với lệnh hành quân thật rõ ràng, phải lên đường xâm nhập lúc trời sắp tôi trong vòng ba ngày, và phải ở trong vùng hành quân năm ngày.
        Khu vực hành quân xâm nhập giao phó cho chúng tôi có bề rộng 15x15 cây số vuông, trong vùng rừng núi rậm rạp, khoảng giữa trại LLĐB Khâm Đức và biên giới Lào-Việt. Và mục tiêu cho toán biệt kích dò thám là hệ thông đường, quân đội Bắc Việt mới xây dựng từ Lào chạy vào miền nam Việt Nam. Ngoài việc tìm kiếm những con đường, chúng tôi còn phải đo lường mức độ xử dụng (chuyển quân, đồ trang bị, tiếp vận, vũ khí).
        Sau khi nhận lệnh hành quân, toán biệt kích được giới thiệu với phi hành đoàn trực thăng 281, mà có nhiệm vụ đưa chúng tôi đi thám thính, xâm nhập, triệt xuất, và tất cả những khi chúng tôi cần đến. Họ không làm việc với các toán biệt kích khác, cho đến khi chúng tôi xong nhiệm vụ và trở về. Nói một cách khác, phi hành đoàn cũng là thành viên trong toán biệt kích.
        Tiếp theo, là người trưởng toán biệt kích, tôi phải đi bay thám sát khu vực hành quân trước, trên một máy bay quan sát O-2 (FAC). Phi công lái máy bay quan sát FAC làm việc cho Hành Quân Delta rất quen thuộc với nhiệm vụ, thiện nghệ. Anh ta sẽ đưa tôi đi dò thám hệ thống đường mòn, tìm bãi đáp trực thăng chính, phụ để xâm nhập và để triệt xuất. Và nếu được tìm những khoảng đất trống cho trực thăng đáp, có thể cần đến trong trường hợp khẩn cấp.
        Sau khi trở về, tôi sẽ thuyết trình cho cả toán biệt kích biết những gì tôi trông thấy, những tin tức liên quan tới chuyến hành quân xâm nhập. Và bàn thảo kế hoạch thám sát khu vực được giao phó, thời khóa biểu hàng ngày và lộ trình di chuyển. Cuối cùng chúng tôi cùng nhau ôn lại những việc phải làm từ lúc rời căn cứ hành quân tiền phương cho đến khi quay về.
        Tất cả chi tiết hành quân, mọi người trong toán biệt kích phải thuộc lòng, tốc độ di chuyển, lúc ngừng lại, nghỉ ngơi, ăn uống, canh phòng, ngủ, đồ “nghề” (trang bị đặc biệt cho mỗi chuyến hành quân, tùy theo nhiệm vụ) mang theo, và quan trọng nhất, phản ứng cấp thời khi chạm địch bất ngờ. Chúng tôi thực tập phục kích, bắt sống tù binh. Tin tức đầy đủ nhất khi đem về một tù binh. Khi đã xâm nhập khu vực hoạt động của địch, chúng tôi ít xử dụng lời nói, chỉ cần ra dấu bằng thủ hiệu vì ai cũng biết rõ nhiệm vụ của mình.
        Trong lúc di chuyển hay tạm dừng quân, mỗi biệt kích được phân chia một góc độ trách nhiệm, để tác xạ và quan sát. Ngay cả lúc đóng quân đêm, toán biệt kích lúc nào cũng phải sẵn sàng tác chiến trong một vòng tròn 360 độ. Đang di chuyển, theo thủ lệnh của người đi đầu, toán biệt kích có thể thay đổi đội hình để phục kích trong vòng một vài giây đồng hồ, và sẵn sàng chiến đấu trong bất cứ đội hình nào.
        Một ngày trước khi lên đường xâm nhập, cả toán biệt kích sẽ đi bay với phi hành đoàn trực thăng Huey để thám sát điạ thế khu vực hành quân. Toán biệt kích cần nhìn thấy khu vực hành quân, mục tiêu, bãi đáp trực thăng. Riêng người phi công bắt buộc phải nhìn rõ, biết rõ bãi đáp trực thăng dự trù có thể thả toán biệt kích xâm nhập hay không.
        Bãi đáp trực thăng cho toán biệt kích của tôi xâm nhập, cũng như hầu hết, thường là một hố bom, trong một cánh rừng rậm rạp, và trên một sườn núi. Bao giờ cũng có một nghi vấn cho viên phi công, có thể đáp được trên hố bom hay không? Điều này tùy thuộc vào khả năng lái máy bay, lòng can đảm, tự tin. Những cây cao xung quanh hố bom thường cao khoảng 200 bộ, toán biệt kích cần phi công cho trực thăng hạ thấp cao độ xuống 155 bộ để leo xuống bằng thang dây dài 35 bộ, rồi nhẩy xuống khi còn cách mặt đất khoảng 10 bộ.
        Bình thường các toán biệt kích Delta lên đường xâm nhập trong những tia nắng cuối cùng của một ngày (hoàng hôn, lúc trời sắp tắt nắng). Chiếc trực thăng chở toán biệt kích sẽ bay trong hợp đoàn “thả biệt kích”, gồm có: trực thăng chỉ huy (C&C), trực thăng chở toán biệt kích xâm nhập, trực thăng phụ (bay theo sau, để cấp cứu), hai chiếc trực thăng võ trang Cobra hộ tống, phi cơ quan sát O-2 (FAC), và trực thăng chở toán của tôi đi thám sát điạ thế.
        Khi hợp đoàn trực thăng đang bay, chợt nghe trên hệ thống truyền tin, toán biệt kích của Ted Perkin, mới xâm nhập hôm qua. Ted báo cáo toán biệt kích đã chạm súng với địch, bị tổn thấy và yêu cầu cấp cứu bằng dây McGuire Rig. Cấp chỉ huy Delta ngồi trên trực thăng chỉ huy quyết định nhanh chóng, chia đôi hợp đoàn trực thăng. Một nửa tiếp tục nhiệm vụ thả toán biệt kích, nửa kia bay đi cứu toán biệt kích Perkin.
        Viên phi công hỏi tôi, tìm một bãi đáp tạm, thả toán biệt kích của tôi xuống để đi cứu toán Perkin rồi sẽ quay lại đón bọn tôi. Tôi nhìn xuống, chỉ thấy mỗi phi đạo của trại LLĐB Khâm Đức đã bỏ hoang có thể làm bãi đáp, nên trả lời, cho toán biệt kích của tôi xuống đó. Lập tức, viên phi công chở chúng tôi rời đội hình, bay về hướng trại LLĐB Khâm Đức.
        Theo trí nhớ của tôi, trại LLĐB Khâm Đức đã bị bỏ hoang, sau khi bị bao vây và tấn công với cả một sư đoàn chính quy Bắc Việt. Căn cứ đã hoang tàn đổ nát, nhưng phi đạo vẫn còn đó. Phi đạo Khâm Đức rất đặc biệt, dài khoảng một dặm, tráng nhựa đường, có lằn sơn trắng chạy dài ở giữa. Từ trên không nhìn xuống một vùng thung lũng, rừng núi rậm rạp bao quanh, phi đạo nổi bật lên. Không thấy dấu hiệu có người, hay dân cư sinh sống trong khu vực.
        Chiếc trực thăng bay sát đầu ngọn cây, từ hướng đông, khi gần đến trại LLĐB Khân Đức, có tiếng súng nhỏ bắn lên, làm viên phi công vội vã bẻ góc bay tránh theo hướng khác. Tôi nhìn xuống quan sát trại LLĐB hoang tàn, phủ rêu xanh, cây cỏ đã mọc lên nhanh chóng... và có nhiều đường mòn rõ ràng, được xử dụng thường xuyên chạy đến và ngang qua căn cứ. Trong căn cứ có nhiều dấu vết mới đào xới của địch.
        Khi trực thăng bay là là trên phi đạo, toán biệt kích chúng tôi nhẩy ra khỏi phi cơ, chạy biến vào hàng cây cạnh phi đạo. Ngay trước mắt toán biệt kích là một con đường mòn, có dấu chân người, chạy dọc theo phi đạo. Khi chiếc trực thăng bốc lên, chúng tôi nghe nhiều loạt tiếng súng nhỏ trên những ngọn đồi xung quanh và tiếng người la hét bên kia phi đạo. Tôi thoáng nhận ra rằng, mình đã chọn một bãi đáp xấu nhất, nguy hiểm nhất ngoài vùng 1 chiến thuật.
        Mới năm trước một sư đoàn Bắc Việt tấn công trại LLĐB Khâm Đức và có lẽ... họ vẫn còn đóng quân ở trong khu vực. Biết vậy, toán biệt kích vẫn phải ở gần phi đạo và hy vọng (cầu nguyện) chiếc trực thăng quay trở lại đón chúng tôi, trước khi quân Bắc Việt đến. Ngay lập tức, toán biệt kích tổ chức phục kích ngay trên con đường mòn, chạy song song với phi đạo. Tôi cũng nhận thức rằng... trường hợp chạm địch, toán biệt kích phải rút ra xa phi đạo và trong khu vực rừng núi âm u, chưa biết sẽ tìm được một khoảng đất trống để làm bãi đáp để trực thăng vào cứu.
        Mặc dầu đây mới chỉ là chuyến bay do thám, nhưng mỗi biệt kích vẫn bắt buộc phải mang theo súng đạn đầy đủ, hai bi đông nuớc, máy truyền tin PRC-25, đề phòng trường hợp trực thăng bị ngộ nạn, lúc đó toán biệt kích mới có khả năng “mưu sinh, thoát hiểm và đào tẩu”. Một điều tôi không có là tấm bản đồ hành quân 1/50.000 khu vực Khâm Đức.
        Bốn mươi lăm phút sau, trời xập tối, tôi tính nhẩm... chiếc trực thăng đã phải bay về căn cứ vì không đủ nhiên liệu, nên không quay trở lại đón toán biệt kích. Nghĩ vậy nên chúng tôi chuẩn bị lui ra xa khỏi phi đạo, trước khi trời trở nên hoàn toàn tối.
        Nhưng khi toán biệt kích chuẩn bị di chuyển, tai tôi nghe được tiếng động cơ của một chiếc trực thăng cô đơn, và tiếng trực thăng nghe lớn dần, lớn dần. Toán biệt kích rời khu rừng, chạy ra phi đạo, vừa đúng lúc chiếc trực thăng bay đến từ hướng đông. Có tiếng súng nhỏ của địch bắn lên, nhưng viên phi công gan dạ, bình tĩnh bay đến chỗ toán biệt kích đang gom lại. Mọi người nhanh nhẹn leo lên, và chiếc trực thăng cất cánh bay về căn cứ hành quân tiền phương An Hòa.
        Chúng tôi bay qua những rặng núi trong màn đêm, cách trại LLĐB Thường Đức khoảng 10 cấy số về hướng tây nam. Bỗng một nhân viên phi hành, vỗ vai tôi nói lớn (vì tiếng trực thăng) “Nói với toán viên của anh bình tĩnh. Mình sẽ phải đáp xuống”. Tôi trả lời của tôi là “Tại sao?”, “Phi cơ hết xăng! Anh không nghe tiếng động cơ hay sao?”. Lúc đó tôi mới để ý tiếng động cơ trực thăng không đều, vì hết xăng.
        Viên phi công bật đèn pha dưới bụng trực thăng, tỏa ra một vùng ánh sáng rộng để chuẩn bị đáp xuống bên bờ một giòng sông, rồi tắt máy. Tôi bố trí toán biệt kích xung quanh chiếc trực thăng, và chỉ ít phút sau một đoàn trực thăng bay đến tiếp cứu, đem theo trung đội “thẩm định trận đánh bom” để ứng chiến. Trung đội này trải rộng ra, bảo vệ chiếc trực thăng cho đến sáng hôm sau, trong khi đó toán biệt kích cùng phi hành đoàn chiếc trực thăng hết xăng được đưa về căn cứ hành quân tiền phương An Hòa.
        Viên phi công nói cho tôi biết, toán biệt kích Perkin chưa sẵn sàng để triệt xuất (tìm bãi đáp chưa ra, bị địch quân bao vây). Các trực thăng võ trang phải bay vào bắn phá xung quanh vị trí toán biệt kích để địch quân “de” lui. Mất một thời gian (cũng vì vậy trực thăng hết xăng), cả hai trực thăng, chiếc trực thăng của anh ta và chiếc “theo đuôi” mới vào, dùng dây McGuire Rig câu toán biệt kích Perkin ra. Sau đó anh ta đáp xuống một nơi an toàn để cho mấy người biệt kích qua trực thăng khác, bay về căn cứ. Anh ta biết không đủ xăng, nhưng hy vọng sẽ cứu được toán biệt kích của tôi rồi bay lết về, đáp trong trại LLĐB Thường Đức...
        Viên phi công biết rằng (bị bắn lúc đáp, cất cánh), toán biệt kích “của anh ta” sẽ không sống sót qua đêm nếu bị bỏ rơi trên phi đạo Khâm Đức... Và người phi công can đảm đã anh dũng, một mình cô đơn, trên chiếc trực thăng gần hết xăng, bay trong màn đêm, trở lại Khâm Đức đón toán biệt kích. Anh ta quay trở lại vì đã hứa... tôi sẽ quay trở lại. Tôi không nhớ tên người phi công can đảm, nhưng sẽ nhớ mãi tiếng động cơ trực thăng gần hết xăng của anh ta.
        Ngày hôm sau, tôi thuyết trình kế hoạch xâm nhập, dò thám vùng hành quân cho vị chỉ huy trưởng Delta cùng ban tham mưu. Chúng tôi lên đường theo đúng kế hoạch vào lúc hoàng hôn. Phi hành đoàn đưa chúng tôi đến bãi đáp chính. Hố bom đủ rộng để cho chiếc trực thăng hạ thấp xuống, rồi toán biệt kích leo xuống bằng thang dây.
        Chuyến xâm nhập êm xuôi, toán biệt kích di chuyển đến gần hệ thống đường mòn của địch thì bị một toán canh gác của địch phát giác. Kết qủa gần giống như những toán biệt kích xâm nhập trước đây. Bị săn đuổi và trực thăng phải vào cấp cứu, triệt xuất.

Dallas, TX.
vđh

DELTA THUNG LŨNG A SHAU
Donald J. Taylor, Sergeant Major (Retired), U.S. Army Special Forces
Project Delta Recon Team Leader, July 1968 - July 1970



        Bộ chỉ huy B-52 đặc trách chương trình Delta (Hành Quân Delta), trực thuộc bộ chỉ huy liên đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ ở Nha Trang trên vấn đề nhân viên. Trong hoạt động, Hành Quân Delta trực thuộc bộ Tư Lệnh Quân Viện MACV, dưới quyền đạị tướng Westmoreland và sau năm 1968 là đại tướng Abrams.

        Bộ chỉ huy MACV xử dụng Delta trong những cuộc hành quân xâm nhập, trinh sát, dò thám lấy tin tức về địch, trên bốn vùng chiến thuật VNCH. Theo thủ tục tham mưu, nếu vị tư lệnh một quân đoàn, hay vùng chiến thuật cần dò thám một khu vực nào đó mà đơn vị viễn thám của vùng không đủ khả năng, ông ta sẽ gửi một công điện cho vị tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), yêu cầu xin tăng cường Delta.      

        Chương trình Delta chuyên điều khiển những toán viễn thám xâm nhập vào vùng hoạt động của địch quân. Một toán biệt kích Delta sẽ bí mật xâm nhập vào khu vực hoạt động của địch, dò thám, thâu thập tin tức về đơn vị địch, rồi triệt xuất, trở về an toàn. Nhiều chuyến xâm nhập thành công, những lần khác không được may mắn. Mỗi khi toán biệt kích bị địch khám phá, sẽ không đem về được những tin tức tình báo cần thiết và còn phải chiến đấu cho mạng sống của toán cho đến khi được trực thăng vào triệt xuất.

        Đến cuối tháng Ba năm 1968, Hành Quân Delta cùng với phi đoàn trực thăng tấn công 281 và tiểu đoàn 81 xung kích, tiếp ứng được đưa ra tăng cường ngoài vùng 1 chiến thuật. Delta lập căn cứ hành quân tiền phương (FOB) trong phi trường Phú Bài. Sư đoàn 101 Nhẩy Dù Hoa Kỳ sẽ hành quân vào thung lũng A Shau, nên họ cần biết sức mạnh và những vị trí đóng quân của đơn vị địch trong khu vực.

        Sư đoàn Dù 101 Hoa Kỳ cũng có đại đội trinh sát, viễn thám của họ, nhưng đưa vào toán nào là mất toán đó, do đó họ mới xin tăng cường Hành Quân Delta. Trong suốt tháng Tư, chúng tôi tổ chức những chuyến xâm nhập vào thung lũng A Shau, để lấy những tin tức tình báo tác chiến cho sư đoàn Dù 101. Dựa vào những tin tức này, ban tham mưu sư đoàn mới phác họa kế hoạch hành quân một cách hiệu quả.

        Thung lũng A Shau mà một mục tiêu gay go nhất, với mật độ địch quân (VC/NVA quân đội Bắc Việt) cao nhất trong suốt miền nam Việt Nam. Địch quân trong khu vực cũng có nhiều kinh nghiệm đối phó với những toán biệt kích xâm nhập. Một toán biệt kích sáu người xâm nhập vào thung lũng A Shau, may mắn lắm mới không bị địch quân khám phá, và khó tránh khỏi chạm súng với địch quân cấp trung đội. Có lẽ họ tổ chức những trung đội đặc biệt, chuyên đi lùng và tiêu diệt những toán biệt kích xâm nhập vào giang sơn của họ.

        Toán biệt kích nào phải xâm nhập thung lũng A Shau mà không chuẩn bị kỹ càng trước, sẽ không tồn tại lâu. Nhiều biệt kích phát biểu rằng, có dò thám được gì đâu, mỗi lần vào là chạm súng với địch, bị săn đuổi... Không may là kể như... tới số.

        Trong chuyến xâm nhập đầu tiên, toán biệt kích của tôi được trao cho nhiệm vụ dò thám khu vực nơi chính giữa, phiá nam thung lũng. Có một rặng núi lớn bao bọc cả thung lũng, khu vực hành quân nào cũng có một phần của rặng núi. Khi bay thám sát khu vực hành quân, trên chiếc máy bay quan sát để tìm điểm xâm nhập và triệt xuất, tôi trông thấy tận mắt, rõ ràng nhiều đường mòn, được xử dụng thường xuyên.

        Khu dưới chân rặng núi cũng có nhiều đường mòn, và những khoảng đất trống do địch quân phá rừng làm vườn trồng rau để tăng thêm lượng thực phẩm. Từ trên máy bay nhìn xuống, địch quân tập trung khu vực dưới chân những rặng núi, càng lên cao, càng ít, chỉ còn lại những toán nằm tiền đồn. Ngọn núi này có tên trên bản đồ hành quân là “Đồi 937” mà ngày nào đó, sư đoàn Dù 101 sẽ đặt tên là “Đồi Thịt Bằm” (Hamburger Hill).

        Đồi 937 gần như nằm gọn trong khu vực hành quân, tôi có thể chọn bãi đáp xâm nhập trên đỉnh đồi, ở khúc giữa hay dưới chân đồi. Tôi đoán, địch có để ít nhất một tổ quan sát, báo động ngay trên đỉnh đồi để theo dõi, dưới chân đồi là nơi địch tập trung quân, cũng nên tránh né. Tôi chọn một khoảng trống nhỏ trên một mỏm núi nhỏ hơn, cao khoảng 4/5 đồi 937, làm bãi đáp chính. Bãi đáp phụ là một khoảng trống nhỏ, bên kia sườn núi, cao bằng nửa ngọn đồi 937.

        Cả hai bãi đáp đều đòi những phi công trực thăng chuyên môn bay thả biệt kích. Họ không nhìn thấy bãi đáp, phải điều khiển trực thăng đứng trên đầu ngọn cây, cách mặt đất khoảng 35 bộ, chờ cho toán biệt kích leo xuống qua “lỗ hổng” bằng thang dây... sơ xuất một chút, cánh quạt trực thăng có thể chém vào vách núi. Trường hợp này, chiếc máy bay quan sát (FAC) điều động trực thăng thả toán biệt kích từ xa, chiếc này sẽ rời đội hình hợp đoàn bay vào đúng “lỗ hổng” rồi thả thang dây xuống, cho toán biệt kích xâm nhập.

        Sau khi bay quanh, quan sát kỹ càng ngọn đồi 937 chừng 45 phút, chúng tôi bay về căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài. Khi chiếc máy bay thám thính bay ngược trở lại khu vực thung lũng A Shau, tôi nghe tiếng gọi của toán biệt kích mới xâm nhập hôm qua. Tôi nhận ra ngay danh hiệu và giọng nói của trung sĩ Charles Prevedel. Anh ta chỉ nói được danh hiệu chiếc FAC và danh hiệu của anh ta rồi ngưng... Tôi có linh cảm, chuyện gì không hay xẩy ra cho toán biệt kích đang ở dưới đất. Tội biết trung sĩ Prevedel không nói bâng quơ như thế. Chiếc FAC tiếp tục bay bao vùng, cố bắt liên lạc với toán biệt kích... cho đến phi gần hết xăng, phải quay về.

        Toán biệt kích sáu người dưới quyền trung sĩ Prevedel “mất tích” từ lúc đó. Không một người trở về, gồm có: trung sĩ Charles Prevedel, hạ sĩ Douglas E. Dahill, trung sĩ nhất Charles V. Newton, và ba quân nhân LLĐB Việt Nam. Họ được báo cáo “Mất tích” cả năm trời, sau đó đổi qua “Mất tích và coi như đã chết”.  

        Vài ngày sau, trung đội “Thẩm định trận đánh bom” BDA, dưới quyền trung sĩ nhất Jerry Nelson, được đưa vào khu vực xâm nhập của toán biệt kích Prevedel để tìm toán biệt kích cũng như chuyện gì đã xẩy ra, và số phận của họ. Trung đội BDA này vào không lâu đụng với đơn vị cấp lớn của địch và cả tiểu đoàn 81 xung kích được đưa vào tiếp ứng. Sau mấy ngày hành quân, lục soát vẫn không tìm ra dấu vết của toán biệt kích. Các đơn vị được rút về, cuộc tìm kiếm coi như chấm dứt. Nếu quân đội Bắc Việt giết toán biệt kích, và đem chôn, hy vọng sẽ tìm thấy nấm mồ tập thể của họ... Vẫn ở đâu đó trong thung lũng A Shau.

        Trở về căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài, tôi phải chuẩn bị cho chuyến xâm nhập. Tôi mới chọn một người toán phó, trung sĩ nhất Joseph “Little Joe” Hartman. Hai trong số bốn người còn lại cũng mới gia nhập Hành Quân Delta, nên phải chỉ dẫn họ thêm. Sau hai ngày thực tập, toán biệt kích ra đi trong những tia nắng cuối cùng của một ngày.

        Khi chiếc trực thăng chở toán biệt kích tách rời hợp đoàn bay đến bãi đáp theo sự hướng dẫn của chiếc FAC, tôi nhận thấy hai viên phi công gặp khó khăn. Rồi một cánh quạt chém vào cành cây làm chiếc trực thăng mất thăng bằng, từ từ rơi xuống thung lũng. Đúng lúc viên khi công tìm được một khoảng đất trống, cho phi cơ đáp xuống. Khi trực thăng vừa chạm đất, Hartman cùng với mấy quân nhân LLĐB/VN đã nhẩy ra, chạy nhanh vào bụi cây. Tôi cũng nhẩy ra định gọi tất cả quay lại nơi chiếc trực thăng để bảo vệ phi hành đoàn, nhưng chiếc trực thăng lại cất cánh được, bốc lên cao, bay lết về căn cứ.

        Tôi chạy lại hàng cây cùng với nhóm biệt kích. Việc đầu tiên là gọi chiếc FAC đang bay bao vùng. Viên phi công chứng kiến từ đầu đến cuối chuyến thả toán biệt kích, lên tiếng trước “Anh có biết mình đang ở đâu không?”, “Không!”. Viên phi công cho tôi tọa độ điểm đứng, khi xem lại bản đồ, bãi đáp bất đắc dĩ này cách bãi đáp chính khoảng một cây số, và nằm trong khu vực xâm nhập của một toán biệt kích “chạy đường mòn” (Road Runner). Toán “chạy đường mòn” này đang có mặt trong khu vực hành quân của họ. Biết rõ tình hình, tôi yêu cầu trực thăng quay trở lại, đón và đưa toán biệt kích vào đúng bãi đáp. Nhưng câu trả lời là “Không”, trời đã gần tối, và bọn tôi phải tìm một vị trí đóng quân đêm gấp.

        Nằm trong khu vực hành quân của một toán biệt kích “chạy đường mòn”, có thể là một vấn đề cho toán biệt kích của tôi. Toán biệt kích “chạy đường mòn” hoàn toàn là người Việt Nam (đa số có gốc rễ nơi miền bắc Việt Nam). Họ ăn mặc quân phục lính Bắc Việt, võ trang tiểu liên xung kích AK-47, chúng tôi không thể nào phân biệt bạn hay địch và trong thung lũng A Shau, kẻ nào bắn chậm... là có hy vọng lên Thiên Đàng.

        Phi công FAC, chuyển lại lệnh từ chiếc trực thăng chỉ huy (C&C), toán biệt kích tìm một vị trí đóng quân qua đêm gần đó và sáng sớm hôm sau, trực thăng sẽ trở lại “di chuyển” toán biệt kích vào đúng bãi đáp, đã dự trù trước. Theo kinh nghiệm, tôi cho lệnh toán biệt kích leo lên đồi tìm chỗ đóng quân đêm. Nếu ở gần bãi đáp trực thăng lầm, có thể có “khách” đến thăm viếng vào lúc đêm khuya. Sáng hôm sau chúng tôi sẽ mò xuống sớm, đợi trực thăng vào đón.

        Toán biệt kích leo lên một sườn núi, khoảng 150 thước, trời đã hoàn toàn tối, không thể đi xa hơn nữa. Đây cũng là một kỹ thuật lẩn tránh địch quân, toán biệt kích di chuyển cho đến khi trời tối, địch quân không thể theo dõi được nữa mới tìm chỗ đóng quân qua đêm. Đêm đó, chúng tôi tìm được một bụi rậm, nhiều cành lá xum xuê, bên cạnh một vách núi thẳng đứng.

        Đêm đó tôi ngủ không được, khi địch quân trông thấy chiếc trực thăng thả toán biệt kích vào lúc trời xập tối. Sáng sớm hôm sau, chúng sẽ cho người đến bãi đáp tìm dấu vết. Nếu trông thấy dấu vết của toán biệt kích, một tên sẽ quay trở về báo cáo và sẽ dẫn một trung đội đi lùng. Còn tên kia tiếp tục dò theo dấu vết tìm vị trí toán biệt kích để tấn công.

        Sáng sớm hôm sau, chiếc FAC đã lên bao vùng, viên phi công tăng ga, giảm ga ra dấu hiệu cho toán biệt kích, có lệnh từ bộ chỉ huy để toán biệt kích vào tần số liên lạc. FAC chuyển lại lệnh cho chúng tôi phải di chuyển ra khỏi khu vực hành quân của toán biệt kích “chạy đường mòn” ngay tức khắc. Bãi đáp chính chỉ cách một cây số, và toán biệt kích phải tự túc. Sau đó chiếc FAC cho chúng tôi một hướng di chuyển để tránh “đụng nhằm” toán “chạy đường mòn”. Thêm một điều nữa, vấn đề không yểm rất kẹt vì phải dành ưu tiên cho việc tìm kiếm toán biệt kích Prevedel, mới bị địch “hốt” ngày hôm qua.

        Toán biệt kích thay vì quay trở về bãi đáp lầm hôm qua, lại tiếp tục leo núi. Chúng tôi đang leo lên một nhánh của rặng núi, có nhiều nhánh nhỏ chạy xuôi xuống thung lũng như những ngón tay. Ngón tay bên trái chúng tôi nhỏ hơn ngón toán biệt kích đang leo. Từ trên cao nhìn xuống, chúng tôi nhận ra bãi đáp lầm hôm qua, là một miếng vườn trồng rau của địch, và có rất nhiều đường mòn qua lại.

        Vào khoảng trưa, từng đám mây kéo đến che phủ bầu trời, và những hạt mưa lạnh rơi xuống. Chúng tôi phải tìm một chỗ trú ẩn cho qua cơn mưa, lúc này mà địch tấn công, toán biệt kích phải tự lực mưu sinh vì trực thăng và các loại phi cơ khác không thể vào vùng hành quân được. Toán biệt kích chia nhau canh gác và ăn trưa, tôi ngồi gần một binh sĩ LLĐB/VN, Trần Sĩ Chung, anh ta có nhiều kinh nghiệm, giữ vai trò đi đầu trong toán biệt kích (point man).

        Ăn chưa hết một nửa, chợt chúng tôi nghe tiếng địch quân cấp đại đội đang di chuyển ngược chiều, đổ dốc từ đỉnh núi xuống. Tất cả mọi người ngừng ăn, nín thở, không dám cử động, đợi cho cơn “giông tố” di chuyển ngang qua. Tiền thám viên Chung, vẫn còn cầm chiếc thìa cơm nửa chừng giữa bao gạo sấy và cái miệng của anh ta. Cũng may, toán biệt kích leo núi, không xử dụng con đường mòn, đại đội lính Bắc Việt vừa di chuyển ngang qua. Toán biệt kích vẫn nằm im cho đến khi tên lính Bắc Việt cuối cùng đã đi ngang qua và đã xa. Chung ăn vội mấy miếng cơm rồi nhét bao gạo sấy trở vào trong ba lô (không được để lại dấu vết).

        Quân Bắc Việt đã trông thấy chiếc trực thăng thả biệt kích, biết trời mưa, không lo bị không quân, trực thăng võ trang oanh kích, chúng cho một đại đội di chuyển từ trên núi xuống, để “nhát ma” lùa toán biệt kích xuống đáy thung lũng... rơi vào rọ. Trước sau gì chúng sẽ lục soát trở lên núi, toán biệt kích cần phải di chuyển gấp.

        Trên một sườn núi (ngón tay) bên cạnh tôi nghe có tiếng một tên địch nói thật to. Một LLĐB/VN thông dịch lại cho tôi biết “Các anh đã bị bao vây! Hãy đầu hàng!”. Những điều tôi đoán đúng, địch quân đã biết có toán biệt kích xâm nhập... chúng chỉ “hù” thôi, chưa biết vị trí toán biệt kích.

        Chúng tôi cẩn thận di chuyển trên “ngón tay” lên đỉnh núi. Rồi tiếng súng AK-47 nổ vang dội núi rừng, thì ra địch quân cứ bắn vào những điểm nghi ngờ, có cây cao trên “ngón tay” bên cạnh. Bọn chúng bầy ra nhiều trò, nếu chúng tôi bắn trả lại, sẽ bị lộ mục tiêu. Hoặc biết đâu có viên nào trúng vào đúng chỗ toán biệt kích đang trú ẩn. Hoặc, cố tình lùa chúng tôi di chuyển đến chỗ chúng đặt ổ phục kích.

        Mặt trời ló dạng, những đám mây tan dần đi. Tôi đã biết vị trí của địch và sẵn sàng trả đũa. Tôi gọi chiếc máy bay quan sát (FAC, điều khiển không trợ), cho biết vị trí của địch và yêu cầu oanh kích. Để an toàn, FAC yêu cầu toán biệt kích đánh dấu vị trí bằng khói mầu. Tôi trả lời, không thể được, toán biệt kích vẫn còn nằm trong tầm đạn của địch. Sau đó tôi yêu cầu FAC cứ bắn một hỏa tiễn khói trắng (để đánh dấu mục tiêu cho phi cơ oanh kích) vào điểm có địch quân, rồi từ đó tôi sẽ cho FAC biết tọa độ của toán biệt kích.

        Chiếc FAC điều động các phi tuần phản lực lên thả bom, oanh kích nhanh chóng. Toán biệt kích bố trí, và tôi làm nhiệm vụ điều chỉnh trận đánh bom. Tiếng phản lực cơ Hoa Kỳ gầm thét cùng với những tiếng nổ dữ dội của bom. Tôi không còn phải nghe những lời “đe dọa” nữa, địch quân ở dưới thung lũng đang chạy trối chết. Tôi dặn FAC, khi phi tuần cuối cùng lên đánh bom, chuẩn bị cho trực thăng vào cấp cứu bọn tôi. Và với tình trạng hiện tại, phải dùng thang dây để triệt xuất toán biệt kích. Khi toán biệt kích leo lên thang dây, người xạ thủ khẩu đại liên M-60 bắn xối xả xuống chân núi, anh ta nói trông thấy địch quân nấp trong những bãi cỏ tranh.

        Về đến căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài, trung sĩ Hart “không thích Delta” nữa, xin ra khỏi hành Quân Delta. Toán biệt kích được nghỉ một ngày, sau đó sẽ được thuyết trình cho một chuyến hành quân xâm nhập khác. Vài năm sau, tôi nghe tin trung sĩ Hart tử nạn xe cộ trên một ngọn núi ở Bavarian Alps. Mong bạn được yên nghỉ, Little Joe.



Dallas, TX.

vđh
 
DELTA THUNG LŨNG TỬ THẦN
Donald J. Taylor, Sergeant Major (Retired), U.S. Army Special Forces
Project Delta Recon Team Leader, July 1968 - July 1970

        Chương trình Delta tăng phái cho sư đoàn 101 Nhẩy Dù Hoa Kỳ trong cuộc hành quân Cass Park không được thành công cho lắm. Đến cuối tuần lễ thứ ba trong tháng Tư năm 1969, Delta đã hành quân xâm nhập ba tuần lễ vào thung lũng A Shau. Và không một toán biệt kích nào thành công, lấy được những tin tức quan trọng về địch quân cho sư đoàn 101 Dù Hoa Kỳ tổ chức cuộc hành quân vào thung lũng A Shau sắp tới.
        Trung đội “Thẩm định trận đánh bom” (BDA) cùng với tiểu đoàn 81 xung kích mở cuộc hành quân vào thung lũng, đem về được ít tin tức của địch. Những toán biệt kích sáu người và những toán biệt kích “chạy đường mòn” xâm nhập vào đều đem về “hậu quả tai hại”. Một toán biệt kích với ba quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ, ba Việt Nam bị mất tích. Một toán biệt kích “chạy đường mòn” cũng bị mất tích. Phi đoàn trực thăng Tấn Công 281 rơi ba trực thăng, và cuộc hành quân chỉ còn một tuần lễ sẽ chấm dứt.
        Sau ba tuần lễ hành quân xâm nhập, Các cấp chỉ huy Hành Quân Delta chỉ có thể nói rằng, địch quân có những toán “lùng và diệt” cấp trung đội, chống lại những toán biệt kích Delta xâm nhập vào giang sơn của họ. Những trung đội này có thể được gom lại nhanh chóng để đương đầu với trung đội “Thẩm định trận đánh bom”. Và nếu đưa cấp đại đội xung kích (Người Hoa Kỳ gọi là Biệt Động Quân) vào, sẽ đụng với cấp tiểu đoàn của địch.  
        Kỹ thuật xâm nhập, dò thám của Delta không có hiệu qủa trong thung lũng A Shau. Sư đoàn Dù 101 Hoa Kỳ phải tìm cách khác, dựa vào kỹ thuật tân tiến, khoa học. Họ giao cho Delta những máy dò điện tử đặt trên mắt đất (UGS) và dụng cụ nghe lén điện thoại... Bỗng nhiên, Hành Quân Delta “làm việc” với những dụng cụ điện tử tối tân, hiện đại.
        Sau chuyến xâm nhập vào thung lũng A Shau trước đây, một nửa toán biệt kích của tôi (3 người) xin “xuất gia”, nên được bổ sung hai quân nhân LLĐB/HK và một Việt Nam. Tuy nhiên, trung sĩ David L. Grange Jr. và trung sĩ William R. “Grit” Pomeroy Jr. chỉ đi với toán biệt kích của tôi một lần để gài máy dò điện tử (UGS). Nhiệm vụ cấp bách, chúng tôi chỉ có một này để học cách gài máy dò, thực tập lại vài kỹ thuật tác chiến.
        Sư đoàn 101 Dù trao cho chúng tôi năm máy dò điện tử (UGS), có một thiếu úy đi theo để huấn luyện cho các toán biệt kích Delta cách gài máy dò. Máy dò điện tử là một hộp sắt mầu đen, cỡ thùng đạn đại liên 50, nặng khoảng 25 cân Anh (lbs). Trọng lượng này phần lớn là bình điện nằm bên trong. Ngoài ra còn dụng cụ đo lường số lượng địch quân trong khu vực và cuộn dây cable nặng tới bốn mươi cân Anh. Đại đội trinh sát (viễn thám) sư đoàn Dù chắc mừng hơn trúng số, khi LLĐB (Delta) “gồng” những chuyện này cho họ.
        Kỹ thuật lúc đó vẫn còn đơn sơ, toán biệt kích đào một rãnh thật nhỏ, rộng 6” (inches), sâu 6” rồi chôn sợi dây cable ngang con đường mòn địch di chuyển, đầu bên kia gắn vào máy dò. Sau đó dựng cần antena ngụy trang trên một cành cây, mở máy dò, chôn xuống đất trong một bụi rậm. Xong đâu đó, phải xóa bỏ mọi dấu vết, để che dấu tai mắt của địch quân. Sợi dây cable sẽ đo lường mức độ di chuyển, số người đi ngang qua, chuyền vào máy dò để lưu trữ. Hàng ngày, máy bay thám thính sẽ bay ngang qua khu vực thâu thập dữ kiện (data) gửi về bộ tư lệnh sư đoàn Dù cho chuyên viên phân tích. Viên thiếu úy Nhẩy Dù nhấn mạnh rằng, sau khi mở máy dò (activate), máy sẽ tự động phát nổ khi bị di chuyển, trường hợp bị địch khám phá.
        Trong lúc thực tập, mở máy tắt máy, không hiểu vì lý do kỹ thuật hay viên thiếu úy sư đoàn 101 Dù không thông suốt, tất cả năm máy dò điện tử (UGS) đều phát nổ, bốc cháy. Cà đám biệt kích dẫm lên nhau để chạy, viên thiếu úy bị phỏng cả hai bàn tay. Ông ta mới vừa dặn dò chúng tôi trước khoảng 5, 10 phút, phải thật cẩn thận. Loại chiến cụ mới nhất của quân đội Hoa Kỳ, và cả sư đoàn Dù 101 chỉ có... năm máy dò điện tử.
        Không một máy dò điện tử “sống sót” qua buổi huấn luyện, toán biệt kích của tôi nhận nhiệm vụ đi gài máy nghe điện thoại lén. Dụng cụ nghe lén là một máy giống như máy cassette Sony, và đường dây điện thoại của địch, chúng tôi phải đi tìm trong thung lũng A Shau.
        Dụng cụ nghe lén cũng đơn giản, dễ xử dụng, chúng tôi chỉ cần nửa tiếng đồng hồ chỉ dẫn rồi vào trung tâm hành quân để nghe thuyết trình về chuyến xâm nhập và nhiệm vụ. Khu vực hành quân dành cho toán biệt kích, ban tham mưu bộ chỉ huy Hành Quân Delta tin là có đường dây điện thoại của địch giăng ngang qua. Chúng tôi có nhiệm vụ xâm nhập, đi tìm đường dây điện thoại, gắn máy nghe lén (thâu âm), rồi phải quay trở lại ngày hôm sau (24 giờ) thâu hồi máy nghe len, đem về. Theo như lời ban tham mưu Delta, chuyến xâm nhập này... dễ dàng.
        Mới đầu tôi cũng tưởng máy nghe lén cũng tương tự như máy dò điện tử (UGS), phi cơ có thể thâu hồi dữ kiện (data). Không ngờ, toán biệt kích phải “nằm vùng” 24 tiếng đồng hồ, quay trở lại ngày hôm sau để thâu hồi máy nghe lén. Ban tham mưu Delta không thực sự hoàn toàn hiểu được sự nguy hiểm đang chờ đợi các toán biệt kích trong thung lũng A Shau.
        Với quân số đông đảo trong thung lũng, địch quân sẽ trông thấy trực thăng vào thả toán biệt kích. Chúng sẽ cho người dò tìm toàn biệt kích, lần mò đến chỗ gắn máy nghe lén điện thoại, và đưa một trung đội đến bố trí điểm phục kích... chờ toán biệt kích quay trở lại với mục đích thâu hồi máy nghe lén. Thung lũng A Shau qủa là một Thung Lũng Tử Thần.
        Chiều hôm đó tôi đi bay trên chiếc FAC, thám sát khu vực hành quân, tìm điểm xâm nhập, triệt xuất. Khu vực hành quân này nằm tận cùng thung lũng, nơi điạ thế bắt đầu nâng cao lên trở thành vùng cao nguyên thuộc Quân Đoàn II VNCH. Những con suối trong khu này đổ vào sông A Sáp, uốn quanh lên hướng tây bắc và qua Lào.
        Thung lũng A Shau trải dài từ hướng đông nam lên tây bắc, như một đường hầm, phần nở rộng ở trên, thắt lại nơi cuối thung lũng. Vùng hành quân cho toán biệt kích của tôi nằm tận cùng phiá nam, nơi các đơn vị Bắc Việt đi ngang qua, để xâm nhập vào tỉnh Thừa Thiên. Thung lũng A Shau cũng là nơi phát xuất cho các đơn vị tấn công thành phố Huế vào năm trước (Tết mậu Thân 1968).
        Hành quân biệt kích xâm nhập thung lũng A Shau là một thử thách khó khăn nhất. Ngoài những căn cứ, trạm canh gác báo động của địch, toán biệt kích cũng phải tránh né người Thượng sinh sống trong khu vực. Sau khi trại LLĐB A Shau di tản trong tháng Giêng năm 1966, ước chừng có khoảng 30000 người Thượng thuộc sắc tộc Pa Kô sống trong thung lũng. Khi LLĐB đi khỏi, người Thượng bắt buộc phải cộng tác với địch quân nếu không muốn bị tiêu diệt.
        Những người Thượng là những tay săn bắn tài giỏi. Họ thuộc điạ hình, điạ vật trong thung lũng như khu vườn của họ... và chắc rằng, quân đội Bắc Việt xử dụng họ để tìm dấu vết toán biệt kích xâm nhập. Sáu tháng trước đó, tôi cùng Mũ Xanh Jerry Nelson trông thấy một toán người Thượng đi tìm chúng tôi. Họ đã đi săn bắn khi còn là những đứa trẻ, nên thuộc từng ngọn đồi, giòng suối, bụi rậm trong khu vực thung lũng.
        Sau khi bay thám sát khu vực hành quân chừng ba mươi phút, tôi chọn bãi đáp chính trên một ngọn đồi nơi hướng tây, cách khu vực dò thám tìm dây điện thoại của địch khoảng một cây số. Trong khu vực dò thám trông rất rõ một đường mòn, chạy dọc theo chân núi theo hướng đông tây. Với điạ thế này, trực thăng chở toán biệt kích sẽ bỏ đội hình khi còn cách mục tiêu khoảng 15 cây số, bay thấp sát đầu ngọn cây, dọc theo bờ sông cho đến bãi đáp thả toán biệt kích.
        Ngày hôm sau, tôi thuyết trình kế hoạch xâm nhập, hành quân dự trù cho ban tham mưu Delta cùng toán biệt kích rồi chúng tôi lên đường vào lúc xế chiều, trước khi trời tắt nắng. Theo đúng kế hoạch, chiếc trực thăng chở toán biệt kích tách ra khỏi đội hình khi còn cách mục tiêu khoảng 15 cây số. Lần này toán biệt kích cũng phải xâm nhập bằng thang dây, leo xuống từ trực thăng (tất cả các khoảng trống trong thung lũng A Shau đủ rộng cho trực thăng đáp đều có người của địch canh gác).
        Khi xuống tới mặt đất, toán biệt kích vội vã di chuyển đến và bắt đầu leo lên một rặng núi nơi hướng đông bãi đáp. Lộ trình di chuyển cho toán biệt kích, tôi dự trù leo lên tới đỉnh núi, sau đó di chuyển về hướng nam, đến khu vực lục soát, tìm dây điện thoại của địch.
        Để được an toàn, toán biệt kích tiếp tục leo núi, cho đến khi trời tối hẳn mới tìm một điểm đóng quân đêm. Lần này cẩn thận hơn, tôi cho gài một quả mìn chống biển người Claymore, trên lộ trình toán biệt kích vừa đi qua.
        Nằm trong đám cỏ tranh không được lâu, chúng tôi nghe tiếng cuốc đào xới trên núi. Mới đầu nghe như tiếng vọng (echo) trở lại, nhưng tiếp theo là những nhát cuốc vào lòng đất nghe rõ hơn. Địch quân đang đào hầm hố phòng thủ, ngay trên rặng núi bên cạnh, và trên đỉnh núi, có lẽ chúng chuẩn bị cho những trận oanh kích của phản lực và trực thăng võ trang. Sáng mai... toán biệt kích sẽ biết ngay.
        “Vấn đề” trở nên xấu hơn, sau nửa đêm, mưa bắt đầu rơi và kéo dài suốt đêm cho đến sáng hôm sau. Với thời tiết mưa gió, trực thăng cũng như các phi tuần phản lực không thể lên đánh yểm trợ, giải vây cho toán biệt kích. Di chuyển cũng khó khăn vì đang ở trên núi, trời mưa, lộ trình rất trơn, dễ bị trượt chân. Mà cũng không thể nằm lại nơi đóng quân đêm, nằm chờ địch quân đến “thăm”. Tôi đợi cho trời sáng hẳn mới ra lệnh cho “Grit” thâu hồi quả mìn Claymore đặt đêm qua, để di chuyển. Nghe tiếng địch quân đào hầm hố trên đỉnh núi đêm qua, chúng tôi sẽ di chuyển trên sườn núi, đi vòng theo hình dáng của qủa núi.
        Trong khi ngồi chờ Grit đi lấy quả mìn về, tôi cùng với Dave Lange và một LLĐB/VN đưa mắt nhìn xa về hướng lộ trình toán biệt kích đã đi qua, để ý quan sát nếu có địch quân bám theo đuôi. Chợt một hình bóng hiện ra  từ một bụi rậm chỉ cách chỗ đám biệt kích khoảng mười lăm thước. Tôi nhìn kỹ lại, bóng đen biến thành mầu xám, rồi lửa loé ra từ mũi súng, rồi nhiều ánh lửa khác từ trong bụi cây loé lên.
        Khoảng cách quá gần, chúng tôi chỉ nhìn thấy tia lửa lóe ra từ mũi khúng. Bên trái tôi là Dave Lange, bên phải là một LLĐB/VN, cả ba chúng tôi đều nổ súng cùng lúc theo phản ứng tức thời. Grit và một LLĐB/VN khác, ném lựu đạn xuống và trận đọ súng kết thúc. Chúng tôi ở vị trí trên cao nên có lợi thế hơn.
        Tôi nhìn quanh toán biệt kích, may mắn không ai trúng đạn. Tất cả nhanh chóng lục ba lô lấy thêm đạn và lựu đạn phòng thân. Grit luôn luôn đem theo tám quả lựu đạn M-26, bốn qủa đựng trong bao đựng bi đông nước, bốn qủa dự trữ bỏ trong ba lô. Trong trận đánh chớp nhoáng vừa qua, anh ta đã xử dụng hết bốn qủa trong túi bi đông nước, bây giờ phải lôi từ trong ba lô ra thay vào.
        Mọi người trong toán biệt kích có vẻ đều bình an, nhưng tôi ngửi thấy mùi khét, một thứ mùi da thịt cháy. Sức công phá, vận tốc của viên đạn với khoảng cách gần, cọ xát vào da thịt có thể gây ra mùi khét như bị đốt cháy. Tôi quay đầu nhìn quanh, sau lưng áo “cọp vằn” (quần áo LLĐB) Dave Lange, có một lỗ nhỏ, xung quanh thấm máu đã thành mầu đen. Thật lạ và may mắn cho Dave, viên đạn đi xuyên qua ngực mà không trúng vào một miếng xương sườn, ra luôn sau lưng. Tôi lên tiếng hỏi Dave một câu hết sức ngu xuẩn. “Dave!”, tiếng trả lời “Yeah!”. “Anh có sao không?”, “Tôi không sao. Thế còn anh thì sao?”. Câu hỏi ngược lại làm tôi ngạc nhiên. “Dave. Tôi không sao, nhưng anh đã bị trúng đạn”.
        Anh chàng Dave quá hăng say, căng thẳng vẫn chưa biết mình đã ăn đạn, suýt chết. Rồi tỉnh bơ hỏi “Vậy hả. Đạn trúng chỗ nào?”. Rồi giơ tay đưa khẩu CAR-15 lên cao, tay trái sờ lên ngực, dính đầy máu “Ô. Cuc cứt!” (Oh. Shit!). Tôi nói Grit, lôi anh chàng Dave lui vào bên trong, băng vết thương cho anh ta, tôi và mấy quân nhân LLĐB/VN vẫn quan sát mọi động tịnh xung quanh vị trí toán biệt kích.
        Nhận định tình hình, tôi biết chắc toán biệt kích đã bị bao vây. Tiếng địch quân la hét trên đỉnh núi, dưới chân núi. Chắc họ đang gọi toán tiền sát vừa đấu súng với bọn tôi, đâu biết đã bị tiêu diệt. Vị trí đã bị lộ, toán biệt kích trả lời địch quân với một quả đạn 40 ly từ khẩu M-79 đã cưa ngắn nòng.
        Tôi gọi đài tiếp vận truyền tin, yêu cầu cho phi cơ thám thính FAC lên vùng, chúng tôi đã chạm địch và một LLĐB/HK bị thương, chúng tôi cần được triệt xuất khẩn cấp. Vài phút sau, chiếc FAC đã bay trên đầu, nhưng không thấy toán biệt kích vì nhiều cây cao che khuất. Fac yêu cầu tôi đánh dấu bằng lựu đạn khói. Một quả vẫn không thấy, chúng tôi ném thêm một quả nữa và FAC cho tôi biết, vị trí của toán biệt kích không nằm trong khu vực hành quân ấn định.
        Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu, phi công FAC muốn ám chỉ điều gì, sau này tôi mới biết, ngày hôm qua, phi cơ trực thăng đã thả toán biệt kích vào nhầm bãi đáp. Thực ra, lỗi lầm này do phi công FAC, điều động trực thăng thả biệt kích vào nhầm bãi đáp. Đặc biệt trong thung lũng A Shau, điều nhầm lẫn rất dễ xẩy ra, từ rặng núi lớn có những nhánh nhỏ chạy dài ra xuống chân núi như những ngón tay. Từ trên cao nhìn xuống rất giống nhau, muốn chắc chắn phải đếm những ngón tay mới đúng vị trí.
        Một phi tuần phản lực cũng đã lên vùng, tôi chỉ điểm oanh kích trên những “ngón tay” bên cạnh, nếu không khi trực thăng cấp cứu vào “bốc” toán biệt kích sẽ có “vấn đề” với bọn chúng. Trong khi hai chiếc Phantom F-4 thả bom, bắn hỏa tiễn xuống mục tiêu, phi công FAC báo cho tôi biết, tìm một bãi đáp, trực thăng cấp cứu đang trên đường tới.
        Cũng may, Dave bị thương, mất nhiều máu nhưng vẫn bước đi được, nếu không tôi phải yêu cầu cấp cứu toán biệt kích bằng dây McGuire Rig. Tôi ra lệnh di chuyển vòng theo triền núi, Grit đi phiá sau, vác ba lô cho Dave. Cả toán biệt kích đi cho đến khi tìm được một khoảng trống, có thể làm bãi đáp.
        Đến một khoảng trống, có thể làm bãi đáp, chúng tôi dùng chất nổ plastic C-4 đốn ngã một cây lớn, những cành cây khác có nhánh đâm ra, chúng tôi khai quang bằng M-16. Vừa khai quang xong bãi đáp, chúng tôi có thể nghe được tiếng trực thăng đang bay đến. Tôi quang ra một qủa khói mầu đánh dấu bãi đáp, và FAC điều động chiếc trực thăng chính bay bào.
        Tôi báo cho FAC, Dave bị thương, không thể leo thang dây, do đó toán biệt kích cần cả hai chiếc trực thăng vào câu lên bằng dây McGuire Rig. Lúc đó hai trực thăng võ trang vào trước và FAC điểu động hai chiếc này bắn phá khu vực xung quanh bãi đáp.
        Tiếng chiếc trực thăng thứ nhất nghe rõ dần rồi hiện ra ngay khoảng trống. Viên trung sĩ phi hành đoàn, nhanh nhẹn thả mấy sợi dây McGuire Rig xuống. Như tôi đã ra lệnh trước, Dave, Grit và một LLĐB/VN chạy lại, cột ba lô vào dưới dáy sợi dây, ngồi vào trong vòng và cho  bàn tay trái vào vòng tan toàn, rồi giơ ngón tay cái lên ra hiệu cho người chuyên viên “câu” biệt kích, cất cánh.
        Chuyến đầu tiên diễn ra êm xuôi, không đến 30 giây đồng hồ. Chiếc trực thăng thứ hai bay vào đúng khoảng trống, thả xuống một thang dây dài 35 bộ. Tôi nhìn lên trực thăng, nhận ra bạn hiền, trung sĩ Johnny G. Santora, nơi cửa. Đúng lúc đó tiếng đạn nổ vang dội, như dưới âm ty điạ ngục. Chiếc trực thăng cấp cứu trúng đạn súng tiểu liên AK-47, người xạ thủ đại liên M-60 trả đũa, bắn xối xả lên sườn đồi.
        Tôi thoáng nghĩ, “Thôi rồi!”, chiếc trực thăng sẽ bốc lên cao và dọt lẹ, nhưng viên phi công vẫn bình tĩnh, không muốn bỏ rơi những người vẫn còn kẹt trong lòng địch. Thấy vậy, tôi bắt buộc phải leo lên thang dây giữa tiếng súng của địch.
        Trung sĩ Santora phản ứng rất nhanh, có lẽ nhờ vậy cứu được chúng tôi, anh ta quang ba sợi dây McGuire Rig xuống cho hai LLĐB/VN ngồi vào, còn tôi đang móc dính vào thang dây trực thăng. Tôi ra dấu hiệu “OK!” và chiếc trực thăng bay lên cao.
        Chiếc trực thăng hướng về căn cứ hành quân tiền phương Phú Bài, ba đưá tôi đeo lủng lẳng dưới bụng trực thăng khoảng 100 bộ. Tôi nhìn về hướng thung lũng “Tử Thần” lần chót, hy vọng không phải vào đó thêm một lần nữa.
        Hai hôm sau, Hành Quân Delta dọn dẹp căn cứ hành quân Phú Bài. Thung lũng A Shau được bàn giao trách nhiệm cho đơn vị Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG), và họ cũng bị tổn thất trong những ngày tháng sắp đến.
        Khi bình phục, Dave Lange trở thành toán phó của tôi khi Hành Quân Delta vào thám sát khu vực An Hòa. Ít lâu sau, tôi đề nghị Dave lên làm trưởng một toán biệt kích khác khi Delta di chuyển lên căn cứ hành quân tiền phương Mai Lộc.

Dallas, Texas 
vđh

BIỆT KÍCH DELTA - HỐ CẠN
Donald J. Taylor, Sergeant Major (Retired), U.S. Army Special Forces
Project Delta Recon Team Leader, July 1968 - July 1970



        Bộ chỉ huy B-52, hành quân Delta, dưới quyền chỉ huy của liên đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ có nhiệm vụ đưa các toán biệt kích xâm nhập khu vực địch kiểm soát để lấy tin tức. Những tin tức về đơn vị địch rất quan trọng cho các đơn vị Hoa Kỳ, VNCH soạn thảo kế hoạch hành quân, dựa trên những tin tức về quân số, hỏa lực và vị trí của đơn vị địch.

        Nói cách khác, các toán biệt kích Delta có nhiệm vụ tìm dấu vết của địch, nhận diện đơn vị, quân số, hỏa lực của địch, nhưng không cần thiết phải tấn công địch quân. Tuy nhiên, nhiệm vụ cho các toán biệt kích theo thứ tự ưu tiên: nếu có thể bắt sống tù binh đem về khai thác. Còn chuyện tấn công đơn vị địch là một điều ngu xuẫn, tự sát. Làm sao đưa một toán biệt kích sáu người đi tấn công một đơn vị cấp tiểu đoàn của địch.

        Khi xâm nhập vùng hành quân, các biệt kích phải luôn luôn nghĩ rằng, có sự hiện diện của quân địch, đâu đó trong khu vực hành quân. Thỉnh thoảng vẫn có trường hợp, toán biệt kích Delta được đưa vào vùng hành quân mà địch đã di chuyển đi nơi khác, hoặc không có bóng dáng địch hay họ chưa hề đặt chân đến khu vực này. Khi một toán biệt kích Delta xâm nhập vùng hành quân không có dấu vết của địch, trường hợp này gọi là “Hố Cạn”.

        Gặp trường hợp hiếm hoi này, toán biệt kích ra vào khu vực hành quân thoải mái, như đi nghỉ phép. Tuy nhiên cũng có những trường hợp “động ổ” như câu chuyện sau đây. Một kỷ niệm khó quên về “Hố Cạn” trong thời gian làm trưởng toán biệt kích Delta.



BOM DAISY CUTTER

        Khoảng giữa tháng Mười Một năm 1968, hành quân Delta được di chuyển từ căn cứ hành quân tiền phương (FOB) An Hòa, của TQLC/HK ngoài vùng I chiến thuật, bay thẳng về vùng 3, thiết lập căn cứ hành quân tiền phương mới bên cạnh phi đạo trại LLĐB Đồng Xoài. Không được nghỉ ngơi giữa hai cuộc hành quân, tuy nhiên chúng tôi được cấp chỉ huy an ủi, cho biết cuộc hành quân chỉ kéo dài đến khoảng 20 tháng Mười Hai. Chỉ để lại đơn vị trông nom, bảo vệ căn cứ cùng với yểm trợ, còn tất cả sẽ được đưa về Nha Trang mừng lễ Giáng Sinh, và năm mới. Nhưng thực tế, năm 1968, cuộc hành quân Delta kéo dài qua năm 1969.

        Một tuần trước lễ Giáng Sinh, chúng tôi sửa soạn về Nha Tranh như cấp chỉ huy đã hứa. Bỗng được lệnh vào trung tâm hành quân (TOC) để nghe thuyết trình và nhận lệnh. Khu vực hành quân được trao cho toán biệt kích chúng tôi rộng 10x10 cây số vuông, rừng lá rậm rạp nơi phiá đông thị trấn An Lộc, tỉnh Bình Long. Tin tức tình báo cho biết có nhiều trại đóng quân cấp đại đội, tiểu đoàn của địch trong khu vực hành quân. Ngay sau đó, tôi đi bay với thiếu tá Không Quân Roscoe trên chiếc máy bay quan sát O-1 (FAC bird-dog), thám thính khu vực hành quân chọn bãi đáp (điểm xâm nhập, triệt xuất toán biệt kích).

        Bay thám thính trong một khu vực rừng rậm rạp, rộng lớn 10x10 cây số không phải là điều dễ làm. Cuối cùng hai chúng tôi đồng ý, khu vực thám sát là khu vực nằm giữa hai nhánh sông nhỏ và tiếp theo tìm điạ điểm xâm nhập. Tôi để ý đến một khoảng trống nơi góc tây bắc và hỏi thiếu tá Roscoe, sao lại có khoảng đất trống đó, và được trả lời đó là hố bom Daisy Cutter. Tôi đã đọc bài viết về loại bom BLU-82B “Daisy Cutter”, đến hôm đó mới được chứng kiến.

        Hố bom này rộng lớn hơn những hố bom mà tôi đã nhìn thấy trước đây. Quả bom tạo nên một khoảng trống, đường kính rộng khoảng 200 thước và rất tròn, phủ cát trắng nổi bật lên giữa một rừng cây lá mầu xanh thẫm. Theo tài liệu đăng trên báo Stars and Stripes, bom Daisy Cutter là một qủa bom to, nổ khi còn cách mặt đất khoảng vài bộ. Khi nổ sẽ giết hết cây cỏ, cả lớp đất mầu mỡ trên mặt đất trong vùng ảnh hưởng, tạo nên khoảng đất trống có thể đáp được bốn, năm chiếc trực thăng. Nhìn thấy rõ ràng từ trên không, hình tròn mầu trắng như có ai dùng kéo cắt ra từ một khoảng cỏ xanh, nên mới có tên “Daisy Cutter”. Tôi có thể chọn một bãi đất trống khác để xâm nhập, nhưng tính hiếu kỳ, tôi muốn đến tận chỗ để quan sát nên chọn đó làm điểm xâm nhập. Điều này sẽ làm tôi hối hận.

        Tôi hỏi thiếu tá Roscoe thêm về bom Daisy Cutter, nhưng ông ta không biết gì thêm, chỉ nói đã gặp một phi công C-130 thả loại bom này, và viên phi công trả lời rằng rất sợ khi phải bay thả bom Daisy Cutter. Quả bom được lăn ra cửa sau phi cơ, rơi xuống bằng dù dưới cao độ 6000 bộ, đủ thời gian cho chiếc C-130 bay ra khỏi khu vực thả bom. Trường hợp, nếu dù không mở, qủa bom chứa 13000 cân Anh thuốc nổ mạnh, rơi xuống nhanh hơn có thể gây nguy hiểm cho chiếc phi cơ C-130 cùng phi hành đoàn.

        Về đến căn cứ hành quân tiền phương Đồng Xoài, tôi hỏi vị sĩ quan S-2 (an ninh, tình báo tác chiến) về hố bom Daisy Cutter đó, nhưng ông ta cũng không biết, và cũng không có tin tức nào khác về một đơn vị nào đó đã đi hành quân ngang qua khu vực hố bom.

        Chiều ngày hôm sau, toán biệt kích của tôi chuẩn bị hành trang, vào trung tâm hành quân nghe thuyết trình lần cuối, rồi ra đi trước khi trời xập tối. Chiếc máy bay thám thính FAC, lên vùng trước, cho lệnh chiếc UH-1 đưa toán biệt kích vào bãi đáp “Mẹ của những bãi đáp” rộng lớn. Như thường lệ, toán biệt khi khi nhẩy ra khỏi trực thăng, chạy vào rừng tìm chỗ ẩn náu, nhưng xung quanh bãi đáp “Daisy Cutter” này không có rừng, chỉ có những khúc gỗ, thân cây đổ ngổn ngang, cao đến 50 bộ như một bức tường bằng gỗ.

        Trong những tia nắng cuối cùng của một ngày, chúng tôi nhìn xung quanh bãi cát trắng, bức tường gỗ bao quanh toán biệt kích Delta. Người nào cũng kinh ngạc, sức nổ của qủa bom đốn ngã những cây cao, rồi đẩy dạt ra xung quanh, tạo thành bức tường gỗ cao 50 bộ, với bề dầy 50 thước.

         Toán biệt kích chỉ còn cách leo ra khỏi bức tường trước khi trời tối hẳn, nếu không sẽ phải ngủ trong bãi đáp “Daisy Cutter”, điểm xâm nhập, là điều nguy hiểm không lường được. Chúng tôi đi vòng theo chu vi bãi đáp, tìm một chỗ chắc chắn, (vì là những khúc đỗ chồng lên nhau, cùng với đất cát...) để leo ra. Nhưng trời xập tối nhanh chóng và toán biệt kích phải ngủ lại bên trong hố bom Daisy Cutter.

        Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đi tìm chỗ để leo ra, đi hết một vòng, trở về chỗ khởi điểm vẫn tìm không ra. Bức tường chỉ là những khúc gỗ chồng chất lên nhau, với sức nặng con người cùng với ba lô, súng đạn, leo lên cao sợ những khúc gỗ ở dưới bị chuyển động và bức tường sẽ xập xuống, có thể bị cây đè chết hoặc gẫy tay, gẫy chân. Vài người đã thử leo lên, được vài bước vội tụt xuống vì bức tường không chắc chắn.

        Đến giữa buổi sáng, khoảng 10 giờ, toán biệt kích vẫn còn nằm trong “lòng chảo”, chuyện leo lên bức tường gỗ rất nguy hiểm. Còn nguy hiểm hơn nếu địch quân khám phá ra vị trí toán biệt kích. Chúng tôi tiếp tục đi vòng tìm một chỗ tương đối chắc chắn, rồi người lính biệt kích đi đầu (point man, đã có nhiều kinh nghiệm) leo lên trước. Anh ta leo lên tới đầu bức tường, đảo mắt nhìn quanh rồi tụt xuống thật nhanh báo cáo, bên ngoài hố bom Daisy Cutter có một binh trạm bỏ hoang của địch, nhưng không chắc chắn địch quân đã thực sự bỏ đi hết.

        Đứng trước tình trạng, không còn cách nào khác, tôi ra lệnh cho người đi đầu leo trở lên quan sát binh trạm của địch. Nửa tiếng đồng hồ sau, anh ta ra dấu hiệu an toàn, không thấy bóng dáng địch quân, toán biệt kích Delta mới leo lên từng người một, thoát ra ngoài “lòng chảo”.

        Ra đến bên ngoài, toán biệt kích tập họp lại, di chuyển thận trọng, lục soát căn cứ đã bỏ hoang của địch. Trong căn cứ, có khoảng mười căn hầm, đều bị xập do quả bom Daisy Cutter tàn phá, nhưng chúng tôi không thể đoán được, địch có trong căn cứ lúc thả bom và có bao nhiêu tên bị chết vì qủa bom. Trong ngày hôm đó, chúng tôi thám sát binh trạm của địch và khu vực xung quanh hố bom và tìm thấy vài trạm canh phòng, tiền đồn nhỏ cho binh trạm của địch. Điều này đưa đến kết luận, quả bom Daisy Cutter được thả để tiêu diệt chỗ đóng quân của địch chứ không phải để làm bãi đáp trực thăng đổ quân. Và binh trạm giữa cánh rừng già này có thể chứa một đơn vị địch cấp tiểu đoàn.

        Những ngày kế tiếp chúng tôi di chuyển trong khu vực hành quân đã định trước, nhưng không tìm ra dấu vết hoạt động mới của địch quân. Có lẽ chúng đã quá khiếp sợ vì sức tàn phá của quả bom Daisy Cutter.

        Sau khi được trực thăng vào đón, đưa về căn cứ hành quân tiền phương. Sau phần thuyết trình, báo cáo, cả toán biệt kích kéo nhau vào căn lều uống bia. Pat Walters, toán phó tươi cười khi nghĩ lại chuyện toán biệt kích bị kẹt trong “lòng chảo”. Tất cả cùng cười, xin cám ơn Thượng Đế, cám ơn trời đất đã cho toán biệt kích chúng tôi một “hố cạn” vào cuối năm như một món quà Giáng Sinh. Nhưng tôi tự nhủ, lần sau phải “né” hố bom Daisy Cutter.



CHẤT ĐỘC DA CAM (AGENT ORANGE)

        Trong tháng Hai năm 1970, hành quân Delta di chuyển lên Phước Long, thiết lập căn cứ hành quân tiền phương nơi phi đạo trại LLĐB Bunard. Đến căn cứ hành quân ít lâu, toán biệt kích của tôi được nghe thuyết trình hành quân dò thám một khu vực mà cây cối đã bị khai quang, hủy diệt bằng chất độc da cam từ những năm 1966, 1967.

        Trước khi khu rừng bị khai quang, tỉnh Phước Long có những cánh rừng rậm rạp, bao la, bát ngát. Dưới những tàn cây rậm rạp địch quân xây nhiều căn cứ, binh trạm và hệ thống đường mòn để chuyển quân, vũ khí, đồ tiếp liệu từ Miên sang. Cũng vì vậy, nhiều cánh rừng đã bị phi cơ Hoa Kỳ rải thuốc độc Da Cam, khai quang cho phi cơ quan sát theo dõi, tìm kiếm những cuộc chuyển quân của địch. Nhưng đến bây giờ (1970), nhiều cánh rừng, cây cỏ đã phục hồi trở lại, gây khó khăn cho phi cơ quan sát. Và nhiệm vụ cho toán của tôi xem xét những con đường mòn để biết địch có xử dụng lại hay không. Nhiệm vụ có vẻ đơn giản, rõ ràng nhưng lại không thực sự... đơn giản như chúng tôi tiên đoán.

        Cũng như lần trước, sau buổi thuyết trình, tôi phải đi bay trên chiếc máy bay thám thính O-1 để thám sát khu vực hành quân, tìm bãi đáp chính, bãi đáp phụ cho toán biệt kích xâm nhập. Tôi đã từng tuần tiễu khu vực này trước đó, khoảng năm 1966, 1967, cùng với một đại đội Dân Sự Chiến Đấu.  Lúc đó khu rừng đã bị khai quang nên tôi có cảm tưởng như mình đã quen thuộc khu vực hành quân. Nhưng không dè những gì mình trông thấy trong chuyến bay hôm đó.

         Chúng tôi bay trên cao độ 2000 bộ, khu vực hành quân nơi cuối đường chân trời. Một mầu xám ảm đạm thay vì mầu xanh của lá cây. Chiếc máy bay quan sát “Bird Dog” bay vào, tôi nhận thức rằng, cả một vùng rừng núi hùng vĩ không còn, những cây gỗ tốt, chắc chắn cao 200, 250 bộ, thân cây to, với đường kính 15, 20 bộ đứng sừng sững, hiên ngang. mặc dầu đã chết ba bốn năm qua. Những cây cổ thụ đã trơ trụi hết lá, chỉ còn trơ lại những cành khô, như những bộ xương với những cánh tay dài lên bầu trời.

        Khoảng bốn năm về trước, tôi đã cùng người Thượng trong lực lượng Dân Sự Chiến Đấu làm bá chủ những khu rừng này. Gần như chúng tôi cũng là một phần của khu rừng, cũng như chim chóc, cỏ cây, và những loài động vật khác. Một đại đội DSCĐ người Thượng đi chuyển ngang qua khu rừng, gặp trái cây ăn được họ hái ăn, nhưng ăn tại chỗ chứ không đem về. Họ sống hòa hợp với thiên nhiên chứ không phá hoại. Trên thực tế, những cây cổ thụ to lớn đó được họ tôn thờ như những vị thần linh. Tôi băn khoăn, không biết những người Thượng đơn sơ, mộc mạc nghĩ sao, khi chúng ta đã hủy diệt thiên nhiên, những vị thần của họ.

        Đại đội DSCĐ người Thượng là một gia đình lớn, một gia đình nối dài của họ. Người nắm quyền đại đội trưởng cũng như ông nội, những người con trai của ông ta sẽ là những trung đội trưởng... Thường họ là những chiến sĩ can đảm, thợ săn giỏi. Người Thượng làm nhiệm vụ hướng đạo (đi đầu), tìm dấu vết rất “chuyên nghiệp”, mà không cần phải qua một khóa huấn luyện, trường, lớp nào. Họ đi rừng rất giỏi và rất trung thành với người Hoa Kỳ.

        Một kỷ niệm khó quên, tôi được chứng kiến sự can đảm của một đứa trẻ người Thượng mười ba tuổi. Tôi không nhớ tên, vác khẩu trung liên Bar nên đặt tên Barman (người xử dụng trung liên Bar). Barman vác khẩu súng, to lớn hơn người, cũng lội rừng vượt suối như mọi người. Chuyện đau lòng, đứt ruột khi phải chứng kiến, người trung đội trưởng DSCĐ cũng là cha của Barman, bế xác con đem về cho mẹ nó.

        Mỗi lần có giao tranh lớn, ngôi làng Thượng như trải qua trận “đại thiên tai”, khi chúng tôi đem xác cha, chồng, anh em, con của họ về. Những người đàn bà Thượng sẽ khóc than, kéo dài mấy ngày, cho đến khi khô cạn nước mắt. Đành rằng, trận chiến nào cũng có những mất mát và chúng ta phải chấp nhận, tuy nhiên nhìn những bà mẹ ôm xác con... thật không đành.

        Trong khu vực hành quân, trước đó cũng là căn cứ điạ của công trường (sư đoàn) 9 VC, có những căn cứ, trạm binh của các trung đoàn 271, 272, và 273. Trong chuyến bay thám thính này tôi tự hỏi, không biết họ còn đó không?

        Tôi chọn một điểm xâm nhập trong một bãi cỏ tranh, trực thăng đáp dễ dàng vì cánh rừng đã chết. Một điểm triệt xuất, nơi hướng bắc khu vực hành quân. Tôi dự trù chuyến hành quân sẽ kéo dài bốn ngày và toán biệt kích sẽ di chuyển đến bãi đáp trực thăng để triệt xuất. Khu vực hành quân xâm nhập nằm nơi phiá bắc tỉnh Phước Long, có nhiều dẫy đồi nhỏ và những con suối  con. Ngoài vấn đề chính là địch quân, còn vấn đề nước uống cũng là một điều đáng để ý. Lúc đó đang giữa mùa hè, dưới sức nóng oi bức của miền nhiệt đới, vác ba lô trèo đèo lội suối, một người lính cần uống hơn ba lít nước mỗi ngày. Không biết những giòng suối nhỏ vẫn có nước hay đã cạn trong mùa hè.

        Do đó toán biệt kích vẫn phải tìm chỗ lấy nước hàng ngày. Thiếu nước, con người kiệt sức nhanh chóng. Mỗi biệt kích quân, đem theo sáu bi đông nước và họ sẽ uống hết trong một ngày lội trong rừng. Hành quân biệt kích trong mùa hè, vấn đề quan trọng nhất là tìm nước, sau đó mới là địch quân. Chỗ lấy nước cũng là tử điạ, vì địch quân cũng phải ra suối lấy nước.

        Khi quay trở về căn cứ hành quân Bunard, tôi thuyết trình cho toán biệt kích. Toán của tôi gồm có sáu người: toán phó là trung sĩ nhất Terrence (Terry) W. Pardee, nhưng anh ta đã hết thời gian phục vụ, về Hoa Kỳ, trở lại đời sống dân sự. Trung sĩ nhất William R. (Grit) Pomeroy Jr. vừa mới bổ sung cho toán biệt kích và đây là chuyến đi đầu tiên của anh ta vào “Hố Cạn”. Grit ở với toán cho đến khi hành quân Delta kết thúc (bị giải tán) vào tháng Bẩy năm sau. Bill Pomeroy có tên gọi thân mật (nick name) là Grit vì anh đến từ Alabama, giọng nói miền nam Hoa Kỳ.

        Chuyến hành quân xâm nhập này hơi đặc biệt, ba ngày sau chúng tôi mới lên trực thăng đi xâm nhập. Bãi đáp tôi chọn rộng rãi, trực thăng có thể xà xuống còn cách mặt đất khoảng sáu bộ và toán biệt kích nhẩy ra. Chúng tôi vừa chạy vừa bò trong đám cỏ tranh cao hơn đầu người, đến một bụi cây khô lớn cách bãi đáp khoảng 100 thước. Trời sẽ tối nhanh chóng, toán biệt kích chui vào trong bụi bố trí thành một vòng tròn 360 độ, ngủ qua đêm.

        Một điều tôi để ý, khi toán biệt kích chạy từ bãi đáp trực thăng đến bụi rậm, không nghe tiếng chim hót, hay những âm thanh khác của thú vật như khỉ, côn trùng, của núi rừng. Một bầu không khí im lặng của tử thần. Bỗng dưng, một tràng súng nổ, phát ra từ một khẩu súng cách đó khoảng vài trăm phút (rõ ràng tiếng súng, không thể sai được). Toán biệt kích báo động ngay tức khắc và cố gắng giải đoán... chuyện gì xẩy ra. Chúng tôi là những “người bạn” duy nhất trong khu vực, một tên VC hay lính Bắc Việt nào đó là tác gỉa của loạt súng chỉ thiên... chỉ địa!

        Vài phút sau, thêm một loạt súng nổ và kết thúc bằng tiếng nổ lựu đạn, nhưng lần này phát ra từ hướng ngược chiều với lần trước. Chúng tôi nghĩ rằng hai toán địch ở hai nơi khác nhau đang chơi... trò gì đây! Rồi một tràng súng nổ nữa nhưng cách xa hơn. Chúng tôi suy luận rằng, địch quân nghe tiếng trực thăng, biết có thể có biệt kích xâm nhập, chúng chia ra nhiều tiểu đội nhỏ đi lùng. Thỉnh thoảng bắn báo hiệu cho nhau và thử phản ứng của toán biệt kích.

        Đêm hôm đó, địch quân dò tìm toán biệt kích suốt đêm, nằm trong bụi chúng tôi không một ai ngủ được, thỉnh thoảng cứ nghe một tràng tiếng súng tiểu liên và kết thúc bằng tiếng lựu đạn nổ. Đến sáng sớm hôm sau, toán biệt kích chuẩn bị chui ra khỏi bụi rậm, lên đường, chợt nghe tiếng răng rắc như tiếng cây kho gẫy và một tiếng rầm, tiếp theo là bụi tung lên. Ra khỏi bụi rậm, chúng tôi chứng kiến cảnh một khu rừng chết, những cây to lớn đã chết khô, bị mối ăn, thỉnh thoảng lại ngã xuống.

        Cả toán biệt kích bố trí quan sát khu rừng chết, những thân cây to lớn đổ xuống, lăn đè lên làm gẫy những cành khô, gây ra một chuỗi nổ nhỏ như tiếng súng, và đến khi lăn chạm vào một gốc cây lớn khác mới ngừng lại gây nên một tiếng lớn như lựu đạn.

        Có lẽ cả đêm qua, toán biệt kích phải nghe những âm thanh này. Địch quân cũng sợ chết vì cây đè, chẳng chẳng có đơn vị địch nào dám vào trong khu rừng này “làm ăn”. Tôi ra lệnh cho cả toán di chuyển ra khỏi khu rừng chết trở lại nơi bãi đáp trực thăng.

        Chúng tôi ngồi gần bãi đáp trực thăng suy nghĩ về lệnh hành quân. Mặt trời từ từ lên cao, chúng tôi phải thay đổi kế hoạch thám sát. Theo đúng lệnh hành quân cho toán biệt kích, chúng tôi phải dò thám những con đường mòn trong khu vực. Biết rằng đó là khu rừng chết, nhưng vẫn phải tuân lệnh. Chắc chắn địch quân đã biết rõ tình trạng của khu rừng như chúng tôi mới biết.

        Biết rằng rất nguy hiểm, có thể bị cây gẫy, rơi đè chết nếu vào bên trong tìm những con đường mòn, tôi vẫn không muốn gọi máy về căn cứ hành quân tiền phương xin triệt xuất. Tôi ra lệnh cho toán biệt kích di chuyển trên cỏ tranh, dọc theo bìa rừng. Đi như vậy không có gì che chở cho toán biệt kích, nhưng đi bên trong... cũng chết. Vả lại đám VC cũng không dại gì chui vào trong khu rừng chết, đầy rẫy cây khô, cành khô, rơi xuống lúc nào không biết.

        Toán biệt kích tiếp tục di chuyển dọc theo bìa rừng lên hướng bắc, cho đến khi gặp một giòng suối để lấy nước. Sau khi mọi người lấy đủ sáu bi đông nước, tôi xem lại bản đồ, biết rằng cách đó khoảng 100 thước, có một con đường mòn. Chúng tôi không theo những điều đã được huấn luyện trước đây, cứ chạy thẳng một mạch đến con đường mòn. Mà thực vậy, tên địch nào dám mò vào khu rừng chết này, không thấy dấu vết có người đi lại trên đường mòn. Chúng tôi chụp vài tấm ảnh, một tấm có cây cổ thụ thật to gẫy đổ trên đường, để đem về. Xong việc, đã có đủ tài liệu, bằng chứng, chúng tôi chạy ra khỏi khu rừng đến bãi cỏ tranh bên cạnh giòng suối.

        Đêm đó chúng tôi bố trí ngủ đêm tại một vị trí gần giòng suối, và cả đêm lại nghe tiếng cây gẫy đổ như đêm trước. Sáng hôm sau, tôi gọi lên chiếc máy bay quan sát FAC, yêu cầu tiếp vận về căn cứ hành quân tiền phương Bunard, chúng tôi đã xong nhiệm vụ sớm hơn dự trù và yêu cầu triệt xuất. Đó cũng là một chuyến hành quân xâm nhập vào “Hố Cạn”. Chúng tôi mong gặp VC thứ thiệt thay vì những gì đã gặp trong khu rừng chết.



THUNG LŨNG CỦA TÔI

        Trong tháng Ba 1970, hành quân Delta vẫn còn trên căn cứ hành quân tiền phương Bunard, thám sát những khu vực dọc theo giòng sông Đồng Nai. Toán biệt kích của tôi được trao cho nhiệm vụ thám sát những nhánh sông nhỏ, nơi chân những rặng núi sát vùng trách nhiệm của quân đoàn II, vùng 2 chiến thuật. Khu vực hành quân xâm nhập này nằm xa nhất của tầm bay của loại trực thăng đổ quân UH-1, và toán biệt kích do tôi chỉ huy là toán đầu tiên phải xâm nhậm, dò thám khu vực xa xôi đó.

        Những chuyến xâm nhập trước đó, toán của tôi thường được trao cho trách nhiệm dò thám những khu vực dọc theo biên giới Việt-Miên. Trong phần thuyết trình hành quân cho chuyến xâm nhập mới này, tôi được cho biết, có một đơn vị cấp lớn của địch đóng quân trong khu vực và toán biệt kích có nhiệm vụ nhận diện đơn vị này.

        Sau khi nghe thuyết trình, tôi cùng với phi công O-1 bay thám sát khu vực hành quân và tìm bãi đáp đê xâm nhập, triệt xuất. Trên đường đến mục tiêu, chúng tôi bay trên cao độ 2000 bộ. Khi đến không phận mục tiêu, từ trên cao nhìn xuống, tim tôi muốn ngừng đập. Dưới đáy thung lũng, nơi những nhánh sông nhỏ sẽ đổ vào sông Đồng nai, có bề rộng 15 cây số và cả vùng thung lũng có chiều dài khoảng 40 cây số và những vách núi dựng đứng hai bên. Khu vực thám sát quá rộng, và điều tôi để ý nhất là có nhiều đường mòn chạy từ trên những sườn núi xuống thung lũng. Cả khu vực được những cánh rừng nhiệt đới, cây cối rậm rạp che phủ. Những con đường mòn chạy từ trên xuống theo hướng bắc nam dọc theo thung lũng và ngang dọc từ đông sang tây, và có dấu hiệu địch quân xử dụng, di chuyển rất thường trên những con đường mòn.

        Kể từ lần xâm nhập vào thung lũng A Shau, tôi không thể nhầm được, những con đường mòn này phải cỡ cấp sư đoàn của địch di chuyển mới bị nén xuống như thế. Nếu ai có hỏi, sau khi chiến khu C bị khai quang, quân VC, Bắc Việt di chuyển đi đâu, thì hôm nay tôi đã tìm thấy câu trở lời. Tôi yêu cầu phi công lái chiếc máy bay thám thính O-1 bay thấp một vòng để tôi quan sát cho kỹ hơn, nhưng anh ta “lạnh cẳng”, từ chối, trả lời địch quân đầy trong thung lũng.



        Tôi chọn bãi đáp xâm nhập là một khoảng đất trống, có một con đường mòn chạy ngang qua, nơi tận cùng phiá đông rặng núi làm thành thung lũng. Tôi chọn điểm xâm nhập này để trực thăng đưa toán biệt kích vào mà không phải bay ngang qua khu vực thung lũng, an toàn hơn. Thêm nữa, chuyến xâm nhập này tôi định “vào” vùng khi tia nắng đầu tiên thay vì lúc hoàng hôn như những lần trước.

        Trở về căn cứ hành quân tiền phương Bunard, tôi thuyết trình lại cho toán viên. Sau khi kể rõ những điều mắt tôi trông thấy, cả toán biệt kích xanh mặt, không dè toán biệt kích bọn tôi lãnh nhiệm vụ xâm nhập vùng “Thung lũng Tử Thần”. Lần này chúng tôi chuẩn bị đem theo thật nhiều đạn dược, mìn Claymore và lựu đạn... để chiến đấu. Và đem theo ít lương thực hơn những chuyến đi trước. Phải lo chuyện tìm đường sống trước nhất. Trung sĩ nhất William R. “Grit” Pomeroy Jr., toán phó, nên dành thì giờ cầu nguyện, nên chúng tôi đi ngủ sớm.

        Yêu cầu ra đi trước rạng đông được chấp thuận và toán biệt kích lên đường vào buối sáng sớm hôm sau, khi trời vẫn còn tối. Chiếc trực thăng chở chúng tôi tách khỏi đội hình, khi ra khỏi căn cứ hành quân khoảng mười cây số, sau đó bay dọc theo sông Đồng Nai lên bãi đáp. Khi qua khỏi rặng núi nơi hướng đông, phi công trông thấy bãi đáp và thả xuống toán biệt kích.

        Trực thăng vừa là là xuống, tôi đã phóng ra khỏi phi cơ chạy vào bià rừng và dẫm lên ngay một bãi phân voi, ngập đến đầu gối. Cả toán biệt kích chạy đến bìa rừng, chúng tôi bố trí quan sát con đường mòn, vừa ngạc nhiên bớt lo âu. Cả bãi đáp lẫn con đường mòn đều có dấu vết của loài voi, phân của chúng vương vãi tùm lum, khắp nơi trên con đường mòn. Thì ra con đường mòn này không phải do người tạo nên, đi lại mà chủ nhân ông của con đường là một đàn voi rừng... và như vậy mấy ông Vi Xi (VC) cũng phải tránh né khu vực này, kiếm chỗ khác “làm ăn”. Cả đôi ta, địch và bạn, “tránh voi chẳng xấu mặt nào”.

        Đã có nhiều váo cáo trước đây, địch quân xử dụng voi để chở đồ tiếp vận, những chiến cụ nặng, nên chúng tôi vẫn phải cẩn thận, có địch trong khu vực. Toán biệt kích thận trọng di chuyển sâu vào trong rừng, khu vực thung lũng. Không bao lâu, chúng tôi biết rằng, không có dấu vết địch quân trong khu vực hành quân, dò thám. Và cũng không có dấu vết chứng tỏ có sự xuất hiện của loài người trước khi toán biệt kích đặt chân đến. Những đàn khỉ, vượn, chim chóc chưa từng có kinh nghiệm về loài người, chưa biết sợ, nhìn toán biệt kích dò xét. Chúng tôi nghe được tiếng động, tiếng kêu của đàn voi di chuyển đi xa chúng tôi. Những con voi đánh hơi người lạ xâm nhập vào giang sơn của chúng thật tài tình. Chúng tôi không thể đoán được đàn voi có bao nhiêu con, nhưng chắc phải nhiều lắm, mới đủ khả năng “xây dựng” những con đường mòn trong khu vực thung lũng.

        Đến buổi chiều hôm đầu tiên xâm nhập, chúng tôi mới gặp “Người của núi rừng” (Forest People). Tôi đã nghe nói về họ từ những binh sĩ Thượng và LLĐB/VN nhưng đây là lần đầu tiên mới được gặp. Một lần trước đây khi còn chỉ huy một đại đội DSCĐ hoạt động trong khu vực đông bắc tỉnh Bình Long. Lúc đó vào mùa khô, những giòng suối nhỏ đã cạn nước, chỉ có một con suối có nước, nằm sâu trong cánh rừng rậm. Để giữ an ninh, tôi chỉ cho mỗi tiểu đội một người đại diện đi xuống suối lấy nước, phần còn lại bố trí phòng thủ.

        Vài phút sau, có những tiếng la hét từ dưới suối vọng lên, rồi những người đi lấy nước, xách những bi đông không quay trở về. Tôi hỏi và được binh sĩ người Thượng trả lời “Con suối thuộc quyền sở hữu ‘Người của núi rừng’, họ không cho phép lấy nước và mình phải ra khỏi khu vực này”. Câu trả lời, tôi không hiểu nổi, nhưng các DSCĐ có vẻ rất “nể nang” họ.

        “Người của núi rừng” bỗng xuất hiện trong khu vực hành quân xâm nhập của toán biệt kích, họ ở trên cây, và xung quanh chúng tôi. Chúng tôi không nghe được sự di chuyển của họ... tự nhiên xuất hiện. Họ xuất hiện nhanh chóng, chúng tôi không biết được có bao nhiêu người. Rồi một con đực to lớn nhất nhẩy từ trên cây xuống, đến gần toán biệt kích quan sát. “Người của núi rừng” cao khoảng năm bộ (không tới 1m60), hai cánh tay dài, lông lá trông như đười ươi, khỉ đột, có lẽ cùng họ với loài khỉ đột cam (Orangutan, sống ở Indonesia). Con này nhe nanh gầm gừ như muốn nói, toán biệt kích nên cuốn gói ra khỏi giang sơn của chúng, rồi cả đàn biến mất nhanh chóng như lúc xuất hiện.

        Toán biệt kích tiếp tục di chuyển êm thấm đến ngày triệt xuất. Trong cánh rừng có nhiều thú lạ, một nơi chưa có loài người đặt chân đến. Khu vực hành quân xâm nhập của chúng tôi là một “Hố Cạn”, không có bóng dáng địch quân. Xin cảm ơn Thượng Đế một lần nữa. Toán biệt kích như lạc vào thiên thai, rất tiếc phải về sớm vì chúng tôi chỉ mang theo ít đồ ăn. “Thung lũng Tử Thần” trở thành “Thung lũng của tôi”.

        Sau khi chúng tôi quay về, hành quân Delta chấm dứt hoạt động trên căn cứ hành quân Bunard. Tất cả được đưa về Nha Trang nghỉ ngơi ít hôm trước khi được không vận ra ngoài vùng 1 chiến thuật, thiết lập căn cứ hành quân Mai Lộc.

        Toán biệt kích chúng tôi đã đem về tin tức, không có bóng dáng VC, quân đội Bắc Việt trong khu vực “Thung lũng của tôi”, và họ không phải là chủ nhân, xây dựng những con đường mòn trong khu vực.

        Năm 1975, những đoàn xe chuyển quân của quân đội Bắc Việt về hướng Saigon cũng không đi ngang qua, tàn phá “Thung lũng của tôi”. Sau này, một tờ báo ở Hoa Kỳ có bài viết cho biết tìm thấy một giống tê giác lạ trong khu vực thung lũng gần sông Đồng Nai. Tôi xem lại tấm bản đồ cũ... Và đúng ý chang, trong “Thung lũng của tôi”. Khu vực thung lũng này bây giờ có tên là Nam Cát Tiên, một khu rừng nguyên sinh, được chính quyền bảo vệ.



MỘT CHUYẾN ĐI DẠO TRONG RỪNG

        Trong tháng Tư năm 1970, hành quân Delta “dọn nhà” ra khỏi Bunard, về Nha Trang nghỉ ngơi và trong tháng Năm, di chuyển ra Quảng Trị, thiết lập căn cứ hành quân tiền phương bên ngoài trại Lực Lượng Đặc Biệt Mai Lộc. Nhiệm vụ cho hành quân Delta ngoài vùng 1 lần này, thám sát khu vực biên giới Lào-Việt, từ vùng phi quân sự về hướng nam đến căn cứ Khe Sanh.

        Trại LLĐB Mai Lộc là tiền đồn xa nhất về phiá bắc VNCH, “Địch quân có thể ném đá vào căn cứ thay cho đạn pháo kích”. Đây cũng là chuyến hành quân Delta thứ hai xử dụng căn cứ hành quân tiền phương Mai Lộc, và các toán biệt kích đều biết rằng, khu vực hành quân mới này không phải “dễ ăn”. Có rất nhiều đơn vị Bắc Việt trong khu vực hành quân, và nhiệm vụ cho các toán biệt kích Delta, đi tìm và nhận diện các đơn vị này trong mỗi chuyến hành quân xâm nhập kéo dài năm ngày. Cứ mỗi lần toán biệt kích xâm nhập vào khu vực Khe Sanh, Lang Vei đều rất có thể sẽ phải triệt xuất khẩn cấp.

        Sau khi đến Mai Lộc ít lâu, toán biệt kích của tôi được mời vào trung tâm hành quân nghe thuyết trình và nhận lệnh. Khu vực hành quân xâm nhập được giao phó cho toán biệt kích nhìn trên bản đồ trông có vẻ rất gay go. Khu vực này sát biên giới Lào-Việt, phiá nam trại LLĐB bỏ hoang Lang Vei, tây nam căn cứ cũng bỏ hoang, trại LLĐB và căn cứ Khe Sanh của TQLC/HK. Và nằm dưới con đường 616 chạy từ bên Lào qua phần đất Việt Nam.

        Đường 616 là một nhánh tẽ ra từ hệ thống đường mòn HCM trên đất Lào, để quân đội Bắc Việt chuyển quân, chiến cụ, đồ trang bị tiếp vận vào tỉnh Quảng Trị. Địch quân xử dụng con đường này rất thường xuyên, những toán biệt kích Delta xâm nhập trước đây đã báo cáo, trông thấy xe cộ của địch di chuyển trên đường 616 tại nhiều toạ độ. Toán biệt kích của tôi sẽ xâm nhập vào khu vực có hình dáng “Lưỡi câu” do giòng sông Tchépone uốn quanh rặng núi Cơ Rốc, cao hơn 1000 bộ trên đất Lào.

        Chỉ cần nhìn khu vực hành quân trên bản đồ, tôi có linh cảm “chuyện lớn” sắp xẩy ra. Toán biệt kích đã được sĩ quan ban 2 thuyết trình, nói rằng trong khu vực có sự hiện diện của nhiều đơn vị Bắc Việt, cùng với các binh trạm, kho tiếp vận. Nhiệm vụ chính cho toán biệt kích, tìm các kho tiếp vận dấu kín trong rừng già của địch và chứa những “món hàng” nào? Nhận nhiệm vụ tôi biết ngay, chuyến đi này sẽ rất nguy hiểm hay “trời thương”.

        Sau đó tôi đi bay thám sát khu vực hành quân, điểm xâm nhập, triệt xuất. Đúng như trên bản đồ hành quân, từ trên máy bay thám thính FAC nhìn xuống, khu vực xâm nhập trông như hình lưỡi câu do dòng sông Tchépone uốn cong. Ba mặt bao quanh “lưỡi câu” thuộc về nước Lào, mặt còn lại thuộc về Việt Nam và có rất nhiều hố bom, lỗ chỗ ở dưới, chứng tỏ khu vực này đã bị oanh kích nặng nề. Tôi chọn được một điểm xâm nhập là một hố bom ngay bên cạnh khu vực xâm nhập, điểm triệt xuất dưới chân ngọn núi Cơ Rốc.

        Phi công lái chiếc O-2 cũng xác nhận với tôi, khu vực xâm nhập “rất nóng” (nguy hiểm) và toán biệt kích có cơ hội chạm địch ngay tại nơi bãi đáp xâm nhập. Chúng tôi quyết định xâm nhập vào lúc trời vừa sáng và được chấp thuận. Trong lúc chờ đợi, cả toán biết kích thực tập “tao ngộ” chiến, đề phòng trường hợp chạm súng bất ngời với địch quân. Tiếp theo là kiểm soát lại ba lô hành trang cho chuyến “công tác” đặc biệt này. Và toán biệt kích lên đường vào sáng sớm ngày hôm sau, khi ánh mặt trời chưa lên cao.

        Trực thăng đưa toán biệt kích vào bãi đáp dễ dàng, khi còn cách mặt đất khoảng sáu bộ, chúng tôi nhẩy ra khỏi trực thăng chạy nhanh vào bờ rừng, gom lại và bắt đầu di chuyển. Vào bên trong chúng tôi gặp ngay một hàng rào làm bằng tre cao đến bụng, lúc đó mới biết bãi đáp trực thăng xâm nhập là một khu vườn canh tác của một đơn vị hậu cần Bắc Việt và một qủa bom 500 cân Anh, không quân Hoa Kỳ đã phá hủy khu vườn.

        Toán biệt kích đi sâu vào khoảng năm mươi thước, khám phá ra được một binh trạm cấp đại đội đã bỏ hoang của địch. Trong căn cứ bí mật có khoảng mười dẫy nhà sàn, có mái che, có thể chứa mười người, hầm trú ẩn tránh bom. Binh trạm này có lẽ được dùng làm nơi nghỉ chân cho các đơn vị Bắc Việt di chuyển ngang qua, không thấy có hệ thống phòng thủ, chiến đấu, giao thông hào. Quan sát những cây cỏ hoang, giây leo mọc lên khắp nơi, chúng tôi đoán rằng địch đã bỏ hoang căn cứ này hơn sáu tháng.

        Từ trong binh trạm này có hai đường mòn, một dẫn đến đường 616, ngã kia đi về hướng tây nam. Cũng như binh trạm, cả hai đường mòn đều đã không xử dụng từ lâu, cỏ dại đã lan lên trên đường. Toán biệt kích di chuyển song song, dọc theo con đường mòn cho đến khi ra khỏi khu vực dò thám nhưng chẳng thấy gì khác thường. Chúng tôi quay trở lại binh trạm và theo con đường mòn kia, đi về hướng tây nam. Cũng chẳng tìm thấy gì, chúng tôi hơi ngạc nhiên, không lẽ lại vào một “Hố Cạn”.

        Trên lộ trình di chuyển về hướng tây nam, chúng tôi đến một ngã rẽ, trái phải dẫn đến khu chứa hàng, những nhà kho nơi địch quân xây những sàn lớn kích thước 10x20 bộ, cao hơn mặt đất 3 bộ. Chúng tôi lục soát xung quanh, tìm thấy khoảng hai mươi kho hàng trống rỗng, có lẽ địch quân đã di chuyển đi chỗ khác. Cả ngày lục soát khu vực chỉ thấy căn cứ, kho hàng đã bỏ hoang, chúng tôi nghĩ rằng địch quân đã di chuyển đi nơi khác.

        Qua ngày hôm sau, toán biệt kích di chuyển về hướng biên giới Lào Việt để triệt xuất. Ra khỏi khu vực binh trạm bỏ hoang, chúng tôi di chuyển trong thung lũng dưới những ngọn đồi, bóng cây rậm rạp của khu rừng nhiệt đới. Tôi dự trù cứ tiếp tục di chuyển cho đến khi gặp giòng sông Tchépone cắt ngang, đó cũng là đường biên giới Việt Lào.

        Đến cuối ngày thứ hai, bốn quân nhân LLĐB/VN trong toán, tin rằng chúng tôi đã được Thượng Đế ban cho một “Hố Cạn” và bắt đầu lơ là. Tôi phải cho họ biết, mới được nửa đoạn đường, vẫn phải cẩn thận.

        Đến sáng ngày thứ tư, toán biệt kích thức dậy trong một buổi sáng yên bình, khu rừng yên tĩnh. Chúng tôi di chuyển đến bãi đáp để được triệt xuất, ngọn núi Cơ Rốc sừng sững như thách đố. Đến gần trưa, chúng tôi đến một giòng suối cắt ngang lộ trình di chuyển.

        Chợt từ phiá bên kia bờ suối, tôi trông thấy ba người lính Bắc Việt cũng đang đi xuống suối. Tôi định nổ súng nhưng chần chừ, chờ Grit vì ba địch quân nằm trong hướng bắn của anh ta. Grit đang dấu mình trong đám cỏ tranh ngay sát bờ suối. Tôi định quạt một băng, nhưng sợ có viên trúng Grit, nên kiên nhẫn nằm chờ.

        Rồi ba tên lính Bắc Việt đột nhiên quay trở lại, hình như bọn chúng đang đi săn trong giang sơn của chúng nên rất tự tin đến độ thản nhiên. Trong khi đó, trung sĩ William R. “Grit” Pomeroy Jr. “đang làm gi?”. Tôi giận điên lên... nhưng sau này tôi được biết, Grit là một người rất nặng vấn đề tín ngưỡng. Sau khi trở về Hoa Kỳ, anh ta theo học trong một trưòng “dòng”, tốt nghiệp về Thần Học, trở lại quân đội làm tuyên úy. Grit vẫn nhớ đồng đội, xin làm việc trong binh chủng LLĐB.

        Trên chuyến trực thăng triệt xuất về căn cứ hành quân tiền phương Mai Lộc, chúng tôi được biết hành quân Delta sẽ chấm dứt và tất cả sẽ di chuyển về Nha Trang để được phân phối ra các đơn vị khác. Đó cũng là chuyến hành quân xâm nhập cuối cùng của tôi trong hành quân Delta.



Dallas, TX. 

vđh
BIỆT KÍCH DELTA CUỐI CÙNG
Roger L. Albertson
U.S. Army Special Forces 1963-1966
B-52, Project DELTA 09/65 – 03/66

        Trung sĩ nhất Wiley W. Gray đã được chôn cất trong nghiã trang quốc gia Arlington hôm 10 tháng Năm 2001. Ông ta đã về hưu từ mấy năm trước, sau khi đã phục vụ trong quân đội 21 năm và đã từng tham chiến ở Hàn Quốc và ở Việt Nam. Tôi gặp ông ta lần đầu tiên trong tháng Giêng năm 1966, lúc đó trung sĩ nhất Gray đã tình nguyện phục vụ trong Hành Quân Delta, do liên đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tổ chức.
        Khi mới qua Việt Nam được vài ngày, ông ta đã là một biệt kích trong ba toán, mỗi toán sáu người, xâm nhập vào khu vực thung lũng An Lão thuộc tỉnh Bình Định. Họ là những quân nhân đầu tiên trong quân đội Đồng Minh xâm nhập vào khu vực này kể từ tám năm qua. Nhiệm vụ của họ là dò thám, tìm kiếm dấu vết một trung đoàn địch quân.
        Ngày 28 tháng Giêng 1966, buổi sáng hôm đầu tiên xâm nhập vào vùng địch, toán biệt kích chạm súng nhẹ với một đơn vị VC. Trung sĩ nhất Cecil Hodgson nổ súng vào hai tên địch có võ trang, đang đi trên một con đường mòn. Lập tức toán biệt kích phải di chuyển thật nhanh ra khỏi khu vực nổ súng, đến một điểm khác trong khu vực hoạt động của địch. Sau khi cảm thấy an toàn, toán biệt kích dừng lại nghỉ ngơi, duyệt xét lại tình hình và liên lạc về căn cứ yêu cầu triệt xuất toán biệt kích. (khi đã bị lộ, toán biệt kích phải tìm cách “trở về”).
        Nhưng đã quá muộn, Hàng loạt tiếng súng của địch nổ vang dội cả khu rừng. Đạn trúng cánh tay trái trung sĩ Badolati làm gẫy tay, khẩu súng của trung sĩ nhất Hodgson làm hư khẩu súng. Toán biệt kích bỏ chạy được khoảng nửa dặm, lại đụng phải địch quân làm toán bị phân tán, chạy hai ngã khác nhau. Trung sĩ nhất Gray, Hodgson và Ronald Terry chạy một ngã, Badolati, và hai người còn lại chạy theo ngã khác. Nhóm Gray, Hodgson, Terry lại không có máy truyền tin để liên lạc, họ lẩn tránh địch quân cho đến buổi chiều ngày hôm sau thì con số may mắn của họ chấm dứt.
        Những quân nhân biệt kích phải tìm một khoảng đất trống để trực thăng vào cứu. Vì không có máy truyền tin nên họ chỉ “cầu may” xử dụng đèn bấm, panô (mầu cam hoặc đỏ, rất chói) để chỉ điểm cho phi cơ (bất cứ phi cơ nào bay bao vùng) vị trí của nhóm biệt kích. Thật không may cho họ, địch quân đã biết trước khoảng đất trống (Địch quân đã xử dụng thung lũng An Lão như một căn cứ điạ của họ từ thời chống Pháp) cho một trung đội phục kích. Trung sĩ Terry bị trúng đạn trên đường di chuyển ra khoảng đất trống, chết ngay tức khắc. Gray và Hodgson chạy hai ngã. Sau đó Gray nghe một phát súng lục (khẩu súng của Hodgson bị trúng đạn, hư hại trước đó) và tiếp theo là hai phát súng trường. Đó cũng là lần cuối cùng Gray biết được số phận của trung sĩ nhất Hodgson.
        Dùng sở trường “mưu sinh, thoát hiểm”, trung sĩ nhất Wiley Gray trốn được thêm hai ngày nữa. Lúc đó địch quân đã báo động, có quân biệt kích xâm nhập. Họ chia ra từng toán ba người, đi lục soát cả khu vực. Nhưng cuối cùng, lúc trời sắp tối, một trực thăng nhận diện được hoả châu cấp cứu bắn từ khẩu súng nhỏ như cây bút máy, dấu hiệu từ Gray, bay vào cứu thoát.
        Năm 1994, tôi dùng tên Cecil Hodgson cho một bài viết, bàn luận về vấn đề đình lại việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam có ảnh hưởng đến các tù binh Hoa Kỳ không. Bài viết này được đang trong nhiều tờ báo khác và được một người bạn gái của cô em Cecil Hodgson tên là Brenda cất giữ. Rồi thì, năm ngoái, viên chức trong chính quyền đến tìm Brenda, với một tin tức nhầm lẫn. Họ cho biết rằng, hai bộ xương của Cecil và Ron Terry đã tìm thấy và thâu hồi, đem về Hoa Kỳ. Cô bạn Brenda, em gái Cecil đưa cho họ bài viết năm 1994 của tôi và dùng nó để tìm ra tôi trong tháng Mười.
        Với giọng nói nhỏ nhẹ, cảm động, Brenda kể cho tôi nghe, Cecil mất ngày 29 tháng Giêng năm 1966, và chính quyền Hoa Kỳ không cho biết rõ ràng về cái chết của anh ta. Chuyện này gây nên sự đổ vỡ trong gia đình nạn nhân, cha mẹ Cecil ly dị sau hơn bốn mươi năm chung sống. Mẹ anh ta, lúc này đã già yếu, thêm bệnh lãng trí (Alzheimer, bệnh quên) vẫn tin tưởng chính quyền Hoa Kỳ đã cho họ biết sự thật. Bố của anh ta vẫn không tin, và cho đến khi ông ta chết, đã tìm đủ mọi cách để tìm kiếm anh ta. Thêm nữa, Cecil có bốn người con, đưá con trai lớn nhất, tự tử chết khi đang phục vụ trong Không Lực Hoa Kỳ.
        Brenda hỏi tôi có biết trung sĩ Gray. Nàng biết được (có lẽ tìm tòi), trung sĩ Wiley Gray là người cuối cùng bên cạnh Cecil lúc còn sống, và Brenda đã đi tìm ông ta trong suốt hai mươi năm qua. Tôi đưa cho Brenda số điện thoại để nàng tìm Gray, người duy nhất có thể cho nàng biết thêm chi tiết về cái chết của Cecil.
        Nhiệm mầu! Đã 34 năm sau khi thoát chết, Gray vẫn còn nhớ đầy đủ, chi tiết về chuyến hành quân xâm nhập vào thung lũng An Lão, về cái chết của người bạn vắn số. Những điều trung sĩ nhất Wiley Gray kể lại xóa đi những bản báo cáo sai bét của quân đội, chính quyền. Và đã hàn gắn, đem gia đình trung sĩ Cecil Hodgson trở lại.
        Wiley Gray lên cơn đau tim, mất ngày 16 tháng Tư năm 2001. Ông ta là một người đàn ông ngang tàng, cao 6’2 (6 bộ 2), đẹp trai, cười rất có duyên. Trong năm 1966, ông ta từ chối không nhận huy chương Chiến Sĩ Xuất Sắc, nói rằng “Tôi không đủ khả năng để cứu đồng đội, chỉ riêng mình tôi. Tôi thật không xứng đáng nhận huy chương đó”.
        Ngay cả lúc đã thất tuần, 70 tuổi, hình ảnh trung sĩ Wiley Gray vẫn được in quảng cáo cho đội quân Mũ Xanh (LLĐB) Hoa Kỳ. Trong buổi sáng đẹp trời ngày 10 tháng Năm, thi hài Wiley Gray, được đặt vào trong áo quan (hòm) để đi dặm đường cuối cùng cho đời người. Sáu con ngựa kéo xe cũng bước đi rất chậm chạm như chia sẻ nỗi buồn, cố giữ người anh hùng lại trong giây lát. Sáu người lính trong đội quân danh dự đi hai bên, theo sau là gia quyến, bạn bè, đồng đội. Hỡi Thượng Đế, đó là một mất mát lớn.

Dallas, TX,
vđh

No comments:

Post a Comment