Chương 31
Bên ngoài đang lao nhao lên, không biết việc gì. Mấy người giao liên mệt lử đang ngồi ngoài sân.
Khanh hỏi:
- Xem chung quanh chuồng, không có dấu chân của Ổng à?
- Không có đâu. Đêm qua đâu có tiếng chim “tránh khỏi” quanh vùng này- một người dộng dộng chiếc gậy xuống đất và nói tiếp:
- Chuồng không có lỗ trống, chung quanh không có dấu chân “Ông lớn” thì chỉ còn các “Ông nhỏ” nhà mình thôi chứ ai vô đây?
Khanh bảo:
- Anh em toả rộng ra tìm xem, kẻo nghi oan cho người ta.
Ngoài mặt thì Khanh nói vậy để anh em trong trạm không chĩa mũi nhọn vào khách, nhưng sự thực thì Khanh nghi quyết cho khách. Cái vụ con heo bị xén mất cái đùi sau mới xảy ra hôm trước đâu có lâu gì. Nhưng khách mà Khanh nghi nhất là “khách trời ơi”.
Khanh bảo:
- Các cậu ra nói với anh chỉ huy tốp “bê quay” cho tập trung tất cả vô đây! Nói trạm trưởng mời!
Khanh không dám dùng tiếng bảo, mà nhũn nhặn nói là “mời”. Lạ quá, một con lợn ở giữa chuồng lại mất tích trong đêm qua. Chỉ có Phật trên toà sen mới im lặng được. Cái vụ trước Khanh đã bỏ qua rồi. Chiều hôm qua khi đám “bê quay” đến, Khanh đã ái ngại, nhưng làm sao bây giờ. Dù sao thì mình cũng phải coi họ là….đồng chí.
Họ bắt bằng cách nào mà con heo không kêu?
Tôi hỏi:
- “Bê quay” là đơn vị nào mà kỳ cục vậy đồng chí?
- Nó không phải là một đơn vị, nó là một đám vô tổ chức gồm tất cả lính của các đơn vị đi Nam mà quay trở lại. Đi Nam gọi là đi B, cho nên đi B mà quay trở lại, người ta gọi là “bê quay”!
Khanh lắc đầu nguầy nguậy:
- Cái tốp này thì ghê lắm đồng chí ạ! Nó không sợ cái gì hết muốn làm gì thì làm, kỷ luật quân đội chúng nó đem ra nó nấu giả cầy hết rồi.
Một người từ bên ngoài đi vào. Anh ta gầy gò, hai má hóp hẳn vào, hàm răng trên xỉa ra như cười. Anh ta nói giọng lạnh lùng, dường như anh cảm thấy trước có việc gì không hay:
- Tôi là Chừng, chỉ huy trung đội Bê quay đây. Đồng chí cho tập trung họ lại làm gì?
Khanh thấy hơi ngại vì phải tiếp xúc với mấy người này. Khanh nhã nhặn:
- Cũng có chút việc đồng chí ạ!
Những người mặc quần áo bộ đội, nhưng mỗi người một kiểu cách riêng, đã kéo vào. Chừng bảo:
- Ngồi cả đấy!
Khanh nói:
- Cách đây mấy hôm chúng tôi bị mất một cái đùi heo. Đáng lẽ thì phải nói mất cả con heo, nhưng vì người ta chỉ xén có một đùi. Con heo tôi vừa xổng ra khỏi chuồng gặp mấy trự, mấy trự đè con heo xuống xén phăng đi một đùi.
Các anh coi trên trời dưới thế có ai chơi ác vậy không? – Khanh cố thỏo đều đặn để không phải bốc lên – Đêm qua lại bị mất một con nữa. Lần này thì chúng tôi mất nguyên con.
Chừng không đủ kiên nhẫn nghe tiếp. Anh cắt ngang:
- Chuyện đó có ăn thua gì chúng tôi. – Nói xong Chừng ngồi chồm hỗm xuống và móc thuốc ra cuộn hút một cách bình thản.
Khanh hơi nóng mắt.
- Có chứ! không thì sao tôi “dời” các anh vô đây làm gì? Các anh xem đó, trạm chúng tôi có mấy anh em, ở giữa rừng sâu này kí cóp nuôi được mấy con heo tự túc. Các anh đáng lý phải thương chúng tôi lắm mới phải. Các anh lại làm như thế!
Một anh mặc áo cổ vuông quần đùi, để lột tay đầy nốt thâm đen, nghênh mặt lên, cái mặt tròn như cái bánh ếch trần. Anh ta nói rất nhanh:
- Chúng tôi hiểu ý của đồng chí chạm chưởng rồi tức nà đồng chí nghi anh em chúng tôi đã nàm thịt con nợn của đồng chí chứ gì!
Chúng tôi không thể nàm những chuyện như vậy, mặc dù chúng tôi đang bị “thích” cho một cái chữ không tốt nên trán nà thằng “Bê quay”, nhưng quay thì quay chứ, đi B chúng tôi không đi thì chúng tôi quay lại. Trở về Bắc chúng tôi sẽ ra khỏi quân đội. Nhưng hễ nà Bê quay rồi thì chúng tối không còn ra cái thớ gì nữa hay sao?
Một anh gầy nhom, răng khểnh, tóc xụ xuống che cái trán như một cái lưỡi trai, anh ta dựng một tay lên đầu gối và nói theo nhịp giơ lên bổ xuống của cánh tay này và không nhìn vào trạm trưởng:
- Chúng tôi vào quân đội không phải để ăn cắp! Vì thế người ta không thể muốn trét bùn vào mặt chúng tôi lúc nào thì trét, và nhất định là chúng tôi không thể để người ta trét bừa. Chúng tôi quay trở lại vì chúng tôi không thích đi Nam. Như thế không phải là chúng tôi hoàn toàn mất hết phẩm chất. Chúng tối bị lột mũ, lột sao trên đầu nhưng chúng tôi không cần.
Một người gầy nhom đứng phắt lên lêu đêu khẳng khiu như một cái cọc mắc võng.
Anh ta nói giọng từ tốn, chấm phết rất rõ ràng như một giáo viên đang giảng bài:
- Trạm mất đồ, trạm có quyền nghi ngờ. Đó là quyền của trạm. Chúng tôi là khách chỉ nghỉ chân một đêm ở đây rồi đi. Và chúng tôi bị trạm nghi ngờ. Phải nói trắng ra như vậy. – Anh ta nuốt nước bọt một cách trầm tĩnh
– Thế nhưng nếu muốn buộc tội kẻ khác, chỉ nghi ngờ thôi chưa đủ, cần phải có bằng chứng. Chúng tôi, những kẻ bị nghi ngờ, không biết dúng hay sai, mong chờ trạm trưởng bằng chứng đích xác!
Chừng, nãy giờ ngồi hút thuốc, xem như chuyện của ai không phải chuyện của mình, bây giờ mới lên tiếng:
- Tôi nói thật với anh nhé anh trạm trưởng – Chừng cười mũi – trong đời tôi chưa bị ai làm nhục nhưng trên đường Trường Sơn này thì tôi bị rất nhiều lần, mà đây là một. Tôi đã từng mang nhiều thương tích trong người đây, đây, và đây – Anh xăn quần vạch bụng và đập vào tay
– Nhưng ngày hôm nay tôi coi công lao của tôi như dã tràng xe cát chỉ vì tôi không chịu đi Nam, chứ đến bây giờ nếu tôi tình nguyện đi thì tôi sẽ được phục hồi chức vụ cũ. Nhưng đối với tôi cái gì tôi đã quyết định rồi là tôi không thay đổi. Tôi nói như thế để cho các anh biết rõ về tôi là một thằng như thế nào!
Chừng ngưng một chút rồi tiếp:
- Người ở đây năm cha ba mẹ, cá mè một lứa không ai khiển được ai. Cho nên các anh mất lợn thì các anh cứ tìm bằng chứng, nếu các anh bắt được ai , người đó chịu, còn tôi thì tôi chẳng chịu trách nhiệm về ai cả.
Khanh nói:
- Ở đây không phải chúng tôi đòi các anh thường bồi gì cả.
Một anh “Bê quay” la to:
- Chúng tôi chỉ yêu cầu các đồng chí đừng có đem ách giữa đường mà mang vào cổ chúng tôi.
- Vậy cái gì đây? – một anh giao liên ném một cái ga-men vào giữa sân rồi đứng nghênh mặt nhìn đám “Bê quay”: – Còn chối nữa thôi?
- Nhưng đâu phải của chúng tôi?
Anh giao liên nóng tiết, nhảy cỡn lên như đạp phải gai:
- Các anh cương quyết không nhận phải không?
- Có đâu mà nhận?
Anh giao liên quay ra ngoài nói tiếng thiểu số. Một chốc hai anh thiểu số mang vào ba chiếc ba-lô no phình.
Đám Bê quay bắt đầu nhớn nhác. Chừng nhìn xuống đất. Chẳng ngờ những bằng chứng laị rõ rệt một cách tàn nhẫn như thế. Khanh rất tức tối không họ cự laị Khanh, nhưng bây giờ Khanh lại thấy khổ.
Khanh muốn ngăn anh giao liên lại, nhưng hai anh thiểu số đã mở mấy chiếc ba-lô và lôi ra những gói thịt luộc chảy nước ròng ròng. Họ ném tất cả xuống đất. Nào thịt nạc, nào gan, nào phèo… Cái đầu lợn còn nguyên. Cặp mắt con lợn trợn lên và cái miệng bạnh ra như cười đời.
- Ba-lô này có phải là ba-lô của các anh không?
Hai anh thiểu số khoa tay múa chân. Họ nói sùi cả bọt mép. Một người sấn tới trước đám “Bê quay” nom sát vào mặt họ và vung cả nắm tay lên.
Khanh nói bằng tiếng thiểu số một thôi dài. Hai người thanh niên mới chịu nín hẳn.
Khanh nói với Chừng:
- Thôi cho anh em về đi. Ba-lô của anh nào thì cứ mang về.
Chừng đứng đậy, phủi đít chửi đổng một câu:
– … mẹ! ngày mai có ra đường lấy cái thúng mà úp cái đầu lại!
Tôi và Thu đứng trong nhà xem rõ từ đầu đến cuối. Nhìn những miếng thịt nằm lăn lóc trên sân tôi không còn hiểu ra làm sao nữa.
Anh chàng cao lêu đêu và cái anh có mái tóc như cái lưỡi trai vẫn còn ở đó đợi cho mọi người đi hết rồi, hai chàng hiệp sĩ mới bước ra hay tay xách mấy cái ba-lô kéo lết dưới đất vừa đi vừa lầm bầm:
- Mẹ nó, nó sợ xấu mặt không xách, cứ để cho mình!
Anh cómái tóc như lưỡi trải ngó quanh quất rồi bước ra xách ba-lô và quay lại chợt trông thấy Thu, anh ta cố ý làm ra vẻ tự nhiên. Anh ta cất giọng hát:
- Súng một nòng, đạn hai viên, bắn ai chẳng bắn , tôi chỉ bắn cái thuyền quyên của nàng… i i i i.... rồi ngất ngưỡng đi thẳng.
Khanh ngồi trong nhà cố ý tránh mặt để họ lấy ba-lô của họ cho đỡ ngượng. Khanh quay sang tôi và Thu:
- Anh chị xem họ coi trời bằng vung chưa?
Khanh lắc đầu và thở dài. Khanh lấy thuốc ngồi hút, chẩm rãi phà từng ngụm khói và lại lắc đầu:
- Tôi làm trạm trưởng ở xứ này đã hai năm. Tôi đã đụng với các bố nhiều trận lắm, có trận các bố suýt bắn tôi, nhưng chưa có trận nào tôi bị như trận này.Tôi thắng mà tôi khổ tâm . Thắng mà khổ hơn bại, còn hơn đại bại.
Tôi kiếm cách lảng đi, không muốn nghe thêm.
Qua con sông này rồi thì tôi mới chắc ăn. Dù bệnh nặng người ta cũng không đưa ra Bắc nữa.
Cho nên đã có những người như tôi khi qua được con sông này rồi, lột nón xá dài.
Còn ai lơ mơ không quyết tâm đi Nam thì nằm lại đây “suy nghĩ”, hoặc tìm, hoặc tạo lý do để mà “quay”.
Tôi và Thu là tiêu biểu cho hai hạng người trên đây: Tôi thì sợ bệnh nặng, bị cáng trở ra Bắc. Còn Thu thì suy nghĩ với chiều hướng làm “bê quay”!
Riêng ông Chín thì đã đuổi kịp một trong những người mang đồ ăn giúp ông nhưng các vị này đã xơi hết nhẵn rồi.
Chúng tôi thấy ở trong trạm chật chội và riêng Thu đã bị anh trạm trưởng trổ mòi lôi thôi, cho nên chúng tôi dời ra rừng mong tìm lấy sự yên tĩnh.
No comments:
Post a Comment